4 Nghiệp Theo Cảnh Giới Cho Quả

10 ác nghiệp theo 3 môn: Khẩu ác nghiệp – Nói Dối

By Nền Tảng Phật Giáo

April 25, 2015

2- Khẩu ác-nghiệp:

 

Khẩu ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm được biểu hiện ra ở khẩu-môn nói ác còn gọi là khẩu hành-ác có 4 loại ác-nghiệp:

1- Ác-nghiệp nói dối.

2- Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

3- Ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

4- Ác-nghiệp nói lời vô ích.

1- Ác-nghiệp nói dối

Nói dối là nói lời không thật với tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm để lừa dối người nghe tin là sự thật.

* Nói dối như thế nào?

– Vật nào mình có, nói dối rằng: “Tôi không có vật ấy.

– Vật nào mình không có, nói dối rằng: “Tôi có vật ấy.

– Điều nào mình biết rõ, nói dối rằng: “Tôi không biết rõ điều ấy.

– Điều nào mình không biết rõ, nói dối rằng: “Tôi biết rõ điều ấy.

– Điều mình thấy, nói dối rằng: “Tôi không thấy.

– Điều mình không thấy, nói dối rằng: “Tôi có thấy.

– Điều mình nghe, nói dối rằng: “Tôi không nghe.

– Điều mình không nghe, nói dối rằng: “Tôi có nghe.

– Điều mình biết, nói dối rằng: “Tôi không biết.

– Điều mình không biết, nói dối rằng: “Tôi có biết.”…

Người nói trái với sự thật có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm để lừa dối người nghe tin là sự thật. Người ấy phạm giới nói dối tạo ác-nghiệp nói-dối.

Chi-pháp của ác-nghiệp nói dối

Đế biết ác-nghiệp nói dối có hội đủ các chi-pháp hay không hội đủ các chi-pháp, thì căn cứ vào 4 chi-pháp của ác-nghiệp nói dối như sau:

1- Atthavatthu: Điều không thật, vật không có.

2- Visaṃvādacittatā: Tâm nghĩ lừa dối.

3- Payoga: Cố gắng lừa dối bằng lời nói hoặc bằng thân cử động theo tâm nghĩ lừa dối của mình.

4- Tadattha vijānanaṃ: Người nghe tin theo sự lừa  dối ấy.

– Nếu người nào tạo ác-nghiệp nói dối hội đủ 4 chi-pháp của ác-nghiệp nói dối thì người ấy tạo ác-nghiệp nói dối hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 4 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp nói dối không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp nói dối này có sự khác biệt:

– Nếu ác-nghiệp nói dối hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói dối ấy có năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp-hiện-hữu.

– Nếu ác-nghiệp nói dối không hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói dối ấy có ít năng lực, nếu có cơ-hội thì chỉ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla) kiếp-hiện-hữu mà thôi.

Cố gắng tạo ác-nghiệp nói dối

Người tạo ác-nghiệp nói dối bằng lời nói hoặc bằng thân hành động có 4 cách:

1- Tự mình cố gắng lừa dối bằng lời nói, bằng thân cử động lắc đầu phủ nhận điều có thật, hoặc gật đầu khẳng định điều không có thật.

2- Sai khiến người khác lừa dối bằng khẩu,

3- Viết chuyện không có thật trong thư, trên báo, nói trong đài phát thanh, v.v… lan truyền cho độc giả, thính giả tin theo cho là sự-thật.

4- Viết sách nội dung không có thật, ghi âm thanh vào băng, đĩa, phim ảnh, v.v… có tính cách lâu dài, để lừa dối độc giả, thính giả, khán giả… tin theo cho là sự-thật.

Người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm lừa dối người khác, nếu người khác tin theo sự lừa dối ấy cho là sự-thật thì người ấy tạo ác-nghiệp nói dối hợp đủ 4 chi-pháp. Nhưng nếu người khác không tin theo sự lừa dối thì người ấy tạo ác-nghiệp nói dối không hợp đủ chi-pháp.

Tội nặng – tội nhẹ của ác-nghiệp nói dối

Người tạo ác-nghiệp nói dối có tội nặng hoặc tội nhẹ được căn cứ vào sự thiệt hại nhiều hoặc ít đến cho người tin theo sự nói dối ấy.

– Nếu người tạo ác-nghiệp nói dối đã gây ra sự thiệt hại nhiều đến cho người tin theo lời nói dối, thì người nói dối ấy có tội nặng, có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới (địa ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).

– Nếu người tạo ác-nghiệp nói dối không gây ra sự thiệt hại nào đáng kể đến cho người tin theo sự nói dối ấy thì người nói dối ấy có tội nhẹ, không có khả năng cho quả trong thời kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), nhưng nếu có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp-hiện-hữu.

Quả xấu của ác-nghiệp nói dối

Người nào tạo ác-nghiệp nói dối, nếu có tội nặng thì người ấy sau khi chết, ác-nghiệp nói dối cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ của ác-nghiệp nói dối ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp nói dối ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào khác có cơ-hội thì cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người.

* Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp nói dối có tội nhẹ. Người ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp nói dối không có cơ-hội cho quả thì dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người.

Cả 2 trường-hợp ấy, người ấy còn phải chịu quả xấu của ác-nghiệp nói dối mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ.

Trong chú-giải Khuddakapātha giảng giải về 14 quả xấu của ác-nghiệp nói dối trong kiếp-quá-khứ. Kiếp-hiện-tại của người ấy:

1- Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người)  không trong sáng.

2- Là người có giọng nói không rõ, khó nghe.

3- Là người có đôi hàm răng không đều đặn, xấu xí.

4- Là người có thân hình quá mập, dị kỳ.

5- Là người có thân hình quá ốm,

6- Là người có thân hình quá thấp,

7- Là người có thân hình quá cao,

8- Là người có da thịt sần sùi, xấu xí.

9- Là người mà trong miệng thường thoát ra mùi hôi khó chịu.

10- Là người nói không ai tin theo.

11- Là người nói không ai muốn nghe.

12- Là người có cái lưỡi cứng và ngắn.

13 Là người có tâm thường thoái chí nản lòng.

14- Là người có tật nói cà lăm, hoặc bị câm điếc.

Đó là 14 quả xấu của ác-nghiệp nói dối mà tiền-kiếp   của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

* Nếu người nói dối không gây ra sự thiệt hại nào đến cho người tin theo lời nói dối ấy, thậm chí còn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho người tin theo lời nói dối ấy, thì lời nói dối ấy không có tội.

1 Xem đầy đủ trong phần phạm giới nói dối trong bộ Nền-Tảng Phật-giáo quyển III Pháp-Hành-Giới cùng một soạn giả.