4 Nghiệp Theo Cảnh Giới Cho Quả

10 ác nghiệp theo 3 môn: Thân ác-nghiệp – Sát Sinh

By Nền Tảng Phật Giáo

April 25, 2015

Giải thích 10 ác-nghiệp theo 3 môn

 

1- Thân ác-nghiệp (Kāya-akusalakamma)

Thân ác-nghiệp là ác-nghiệp được biểu hiện ra ở thân-hành-ác có 3 loại ác-nghiệp:

Ác-nghiệp sát-sinh.

Ác-nghiệp trộm-cắp.

Ác-nghiệp tà-dâm.

1.1- Ác-Nghiệp Sát-Sinh

Ác-nghiệp sát-sinh là giết hại chúng-sinh, cắt đứt sinh-mạng của chúng-sinh.

Mỗi chúng sinh đều phải chết do 4 nguyên-nhân:

1- Chúng sinh chết vì hết tuổi thọ.

2- Chúng sinh chết vì hết quả nghiệp-hỗ-trợ.

3- Chúng sinh chết vì hết tuổi thọ và hết quả nghiệp-hỗ-trợ.

4- Chúng sinh chết vì nghiệp khác cắt đứt sinh mạng.

Nếu người nào giết hại chúng sinh nào chết trước khi hết tuổi thọ, hoặc trước khi hết quả nghiệp-hỗ-trợ, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Giết hại chúng-sinh như thế nào?

Danh từ gọi chúng-sinh là danh từ chế-định, do căn cứ vào “ngũ-uẩn.” Ngũ-uẩn là sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn của mỗi chúng sinh.

– Sắc-uẩn đó là sắc thân, thân thể thuộc về sắc-pháp. Sắc-pháp gồm có 28 sắc-pháp

Ví dụ: Chúng sinh là loài người, mỗi người bình thường có đầy đủ nhất chỉ có 27 sắc-pháp mà thôi.

– Nếu là người nam thì trừ sắc-nữ-tính.

– Nếu là người nữ thì trừ sắc-nam-tính.

– Nếu người nào bị mắt mù, tai điếc,… thì sắc-pháp bị giảm theo khuyết tật ấy.

Sắc-uẩn này có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng, luôn luôn biến đổi từ nhỏ đến lớn, từ trẻ sang già cho đến chết.

Trong sắc-uẩn này có sắc-mạng-chủ (jīvitindriya- rūpa) giữ gìn, duy trì mỗi kiếp chúng-sinh cho đến khi hết tuổi thọ, hoặc hết quả của hỗ-trợ-nghiệp, khi ấy sắc-mạng-chủ bị đứt (chết), chấm dứt kiếp chúng sinh ấy cách bình thường, gọi là chết đúng thời (kālamaraṇa).

– Sắc-uẩn của mỗi kiếp chúng sinh bị thay đổi tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của người ấy.

– Thọ-uẩn, tưởng-uẩnhành-uẩn đó là các tâm-sở thuộc về danh-pháp.

– Thức-uẩn đó là các loại tâm thuộc về danh-pháp.

 

4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức- uẩn) này luôn luôn đồng sinh cùng trong một tâm.

Tâm có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng, nghĩa là 4 danh-uẩn có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, được thay đổi mỗi kiếp do năng-lực của nghiệp và quả của nghiệp, từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp-hiện-tại này.

Trong 4 danh-uẩn này có danh-mạng-chủ tâm-sở (jīvitindriyacetasika) giữ gìn, duy trì từ kiếp này sang kiếp khác, dù bị thay đổi mỗi kiếp do năng-lực của nghiệp và quả của nghiệp của chúng sinh ấy.Như vậy, mỗi kiếp chúng-sinh sống do nhờ sắc-mạng-chủdanh-mạng-chủ.

Nếu người nào tạo ác-nghiệp giết hại chúng-sinh, cắt đứt sinh-mạng của chúng-sinh ấy chết trước khi hết tuổi thọ, hoặc chết trước khi hết quả của hỗ-trợ-nghiệp thì người ấy chỉ có thể cắt đứt dòng sắc-mạng-chủ của chúng sinh ấy mà thôi, nghĩa là phá hoại, làm tan rã sắc-uẩn của chúng sinh ấy không còn tiếp tục kiếp sống được nữa mà thôi, nhưng không thể cắt đứt dòng danh-mạng-chủ, bởi vì danh-mạng-chủ thuộc về tâm-sở đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối tượng với tâm, đồng nơi sinh với tâm.

Cho nên, tâm với tâm-sở không bao giờ tách rời nhau được, hễ mỗi khi tâm nào phát sinh thì ắt có số tâm-sở tương xứng đồng sinh với tâm ấy. Trong số tâm-sở ấy có danh-mạng-chủ tâm-sở (jīvitindriyacetasika) đồng sinh với tâm ấy. Tâm với tâm-sở sinh rồi diệt liên tục không ngừng, hay nói cách khác 4 danh-uẩn sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này đến kiếp khác, từ vô thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại.

Ví dụ: Ông A tạo ác-nghiệp giết hại chúng-sinh, như “giết chết ông B” nghĩa là ông A cắt đứt dòng sắc-mạng-chủ của ông B không còn tiếp tục sống được nữa.

Nếu ông B còn là hạng phàm-nhân thì sau khi chết, mọi ác-nghiệp hoặc mọi thiện-nghiệp mà ông B đã tạo trong những kiếp trước (quá-khứ) nghiệp nào có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) sinh làm loại chúng sinh nào, trong cõi-giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc quả của nghiệp ấy như sau:

– Nếu ác-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì suy-xét-tâm hợp với thọ xả là quả của ác-tâm thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) đồng sinh với sắc-uẩn mới, trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.

– Nếu dục-giới đại thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì dục-giới đại quả-tâm (mahāvipākacitta) gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) (4 danh-uẩn) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau đầu thai vào trong bụng mẹ đầu tiên cùng với 3 sắc-pháp là sắc-thân (kāyarūpa), sắc-nam-tính hoặc sắc-nữ-tính (bhavarūpa) và sắc-ý-căn (hadayavatthu) đầy đủ ngũ-uẩn đầu tiên làm người trong lòng mẹ.

– Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả thời kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì dục-giới đại quả-tâm (mahāvipākacitta) gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) (4 danh-uẩn) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau hoá-sinh ngay tức thì trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ có đầy đủ ngũ-uẩn trên cõi trời dục-giới.

– Nếu là vị thiên-nam thì khoảng 20 tuổi, nếu là vị thiên nữ thì khoảng 18 tuổi, rồi duy trì sinh mạng cho đến khi hết tuổi thọ trong cõi trời ấy, v.v….

– Nếu người bị chết ấy là bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi chết gọi là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Như vậy, ngũ-uẩn kiếp-hiện-tại hoàn toàn khác với ngũ-uẩn kiếp-quá-khứ. Ngũ-uẩn kiếp-hiện-tại là quả của những nghiệp trong những kiếp-quá-khứ.

Cho nên, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, mỗi kiếp của mỗi chúng-sinh, phần thân sắc-uẩn của kiếp quá-khứ không có liên quan với thân sắc-uẩn mới kiếp-hiện-tại. Còn phần tâm4 danh-uẩn của kiếp quá-khứ có liên quan với 4 danh-uẩn kiếp-hiện-tại, theo năng lực của nghiệp và quả của nghiệp của chúng sinh ấy.

Chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh

Để biết ác-nghiệp sát-sinh có hội đủ các chi-pháp hay không hội đủ các chi-pháp, phải căn cứ vào 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh như sau:

1- Pāṇo: Chúng-sinh còn sinh-mạng.

2- Pāṇasaññitā: Biết rõ chúng-sinh còn sinh-mạng.

3-Vadhakacittaṃ: Ác-tâm nghĩ sẽ giết hại chúng-sinh.

4- Payogo: Cố gắng giết hại chúng-sinh.

5-Tena maraṇaṃ: Chúng-sinh ấy bị chết do sự cố gắng ấy.

Nếu người nào ác-nghiệp sát-sinh hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 5 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp sát-sinh không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp sát-sinh này có sự khác biệt:

– Nếu ác-nghiệp sát-sinh hội đủ 5 chi-pháp này thì ác-nghiệp sát-sinh ấy có năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp-hiện-hữu.

– Nếu ác-nghiệp sát-sinh không hội đủ 5 chi-pháp này thì ác-nghiệp sát-sinh ấy có ít năng lực, nếu có cơ-hội thì chỉ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp-hiện-hữu mà thôi.

 

Cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh

Người cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh bằng 6 cách:

1- Sāhatthikapayoga: Tự mình cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh, nghĩa là tự mình sử dụng khí giới, dùng sức mạnh cố gắng giết hại chúng-sinh ấy, chúng-sinh ấy bị giết do chính mình. Gọi là tự mình cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh.

2- Āṇattikapayoga: Cố gắng sai khiến người khác tạo ác-nghiệp sát-sinh bằng lời nói, hoặc bằng chữ viết gởi đến nhờ họ, sai khiến họ tạo ác-nghiệp giết hại chúng-sinh ấy.

3- Nissaggiyapayoga: Cố gắng dùng khí giới như phóng lao, ném đá, bắn cung tên, bắn súng, ném chất nổ… để giết hại chúng-sinh ấy.

4- Thāvarapayoga: Cố gắng làm ra những thứ vũ khí để giết hại chúng-sinh có tính cách lâu dài như đào hầm, đặt bẫy, rèn gươm giáo, đúc súng đạn, làm bom, chất nổ, thuốc độc, v.v…. Hễ khi nào có người sử dụng những thứ ấy để giết hại chúng-sinh, thì người làm ra những thứ ấy cũng gọi là tạo ác-nghiệp sát-sinh, bởi vì người ấy có tác-ý ác-tâm giết hại chúng-sinh có tính cách lâu dài.

5- Vijjāmayapayoga: Cố gắng sử dụng bùa chú, phù phép trù ếm, v.v…. làm cho chúng-sinh ấy chết.

6- Iddhimayapayoga: Cố gắng sử dụng phép mầu của mình để giết hại chúng-sinh ấy.

Đó là 6 cách cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh.

 

Ác-nghiệp sát-sinh có tội nhẹ – tội nặng

Người đã tạo ác-nghiệp sát-sinh có tội nhẹ hoặc tội nặng căn cứ vào tác-ý trong ác-tâm trong đối tượng chúng-sinh:

* Chúng-sinh là loài súc-sinh:

– Nếu người nào giết hại loài súc sinh có thân hình nhỏ bé như con muỗi, con kiến, v.v…. thì người ấy có tội nhẹ, vì cố gắng ít.

– Nếu người nào giết hại loài súc sinh có thân hình to lớn như con bò, con trâu, con voi, v.v… thì người ấy có tội nặng, vì cố gắng nhiều.

* Chúng-sinh là loài người:

– Nếu người nào giết hại người không có giới, người ác thì người ấy có tội nhẹ.

– Nếu người nào giết hại người có giới-đức, bậc-thiện-trí, bậc Thánh-nhân thì người ấy có tội nặng.

– Người nào giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán thì người ấy có ác-nghiệp cực kỳ nặng thuộc về ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (anantariyakamma).

Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào ngăn cản được, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy là bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất.

* Người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh rồi, về sau, người ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết ăn năn hối lỗi, từ bỏ ác-nghiệp sát-sinh, tránh xa mọi ác-nghiệp, rồi cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện-nghiệp.

Như vậy, người ấy dù có tội nặng cũng được giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp, còn tội nhẹ thì làm cho không có cơ hội cho quả của ác-nghiệp ấy (nhưng không phải tạo thiện-nghiệp, rồi sẽ xóa được ác-nghiệp).

* Người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh thường ngày, mà không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết ăn năn hối lỗi, không từ bỏ ác-nghiệp sát-sinh, vẫn cứ tiếp tục tạo ác-nghiệp sát-sinh hằng ngày, như người đồ tể giết bò, giết heo, giết gà, giết vịt, v.v…. để bán thịt nuôi mạng.

Như vậy, người ấy đã có tội nặng lại càng nặng thêm; có tội nhẹ lâu ngày trở thành tội nặng, bởi vì thường-hành ác-nghiệp (āciṇṇa-akusalakamma), bởi vì ác-nghiệp được tích lũy lâu ngày.

Quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh

Người nào tạo ác-nghiệp sát-sinh, giết hại sinh-mạng của chúng-sinh, dù lớn dù nhỏ nếu hội đủ chi-pháp thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Nếu ác-nghiệp sát-sinh có tội nặng thì người ấy sau khi chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào khác có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì được sinh làm người trong cõi người này.

* Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp sát-sinh có tội nhẹ. Người ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp sát-sinh không có cơ-hội cho quả thì dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường-hợp ấy, người ấy còn phải chịu quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ.

Trong chú-giải Khuddakapātha giảng giải về 23 quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh trong kiếp-quá-khứ.

Kiếp-hiện-tại của người ấy:

1- Có thân hình tật nguyền.

2- Có thân hình không cân đối, xấu xí.

3- Là người chậm chạp.

4- Có lòng bàn tay, và dưới lòng bàn chân lõm sâu.

5- Có thân hình xấu xí, đầy sẹo.

6- Có sắc diện tối tăm.

7- Có da thịt sần sùi.

8- Có tính hay sợ hãi.

9- Có sức khỏe yếu đuối.

10- Có tật cà lăm, lời nói lặp đi lặp lại, không suôn sẻ.

11- Bị mọi người ghét bỏ.

12- Có những thuộc hạ tùy tùng bị chia rẽ.

13- Có tính hay giật mình, hoảng sợ.

14- Thường bị tai nạn do khí giới, thuốc độc…

15- Là người si mê, ngu dốt.

16- Có rất ít bạn bè.

17- Có thân hình dị hợm, đáng ghê sợ.

18- Có thân hình kỳ dị.

19- Là người hay bệnh hoạn ốm đau.

20- Là người thường sầu não, lo sợ.

21- Có con cháu thường xa lánh.

22- Là người thường bị chết yểu.

23- Là người bị người khác giết chết.

Đó là 23 quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

Tự sát có phải tạo ác-nghiệp sát-sinh hay không?

Tự sát là tác-ý tự giết mình, do nguyên nhân nào đó, còn tạo ác-nghiệp sát-sinh cần phải căn cứ vào 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh như sau:

1- Chúng-sinh còn có sinh mạng, đó là chính mình.

2- Biết rõ chúng-sinh còn sinh mạng (paṇasaññitā), chi-pháp này ám chỉ đến chúng-sinh khác, không phải chính mình.

3- Tâm nghĩ sẽ tự giết hại mình.

4- Cố gắng tự giết hại mình bằng cách nào đó.

5- Mình chết do sự cố gắng của chính mình.

Xét theo 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh, thì tự sát thiếu chi-pháp thứ 2 là biết rõ chúng-sinh còn sinh mạng, bởi vì chi-pháp này ám chỉ đến chúng-sinh khác, không phải chính mình. Cho nên, tự sát không đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh.

Vậy, tự sát không phải tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Thật vậy, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật (10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng):

10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ: Khi tạo pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ nào, Đức-Bồ-tát cần phải hy sinh những của cải, tài sản, ngôi báu, vợ con, v.v.. những gì thuộc về bên ngoài thân thể của mình, để tạo pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ ấy.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung: Khi bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung nào, Đức-Bồ-tát cần phải hy sinh những bộ phận trong thân thể như đôi mắt, v.v.. để bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung ấy.

10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng: Khi bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng nào, Đức-Bồ-tát cần phải hy sinh sinh-mạng của mình, để bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy cho được thành tựu.

Đối với Chư Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ sáng suốt dám hy sinh sinh-mạng của mình, vì mục đích cứu cánh cao cả nhất, để mong trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Như vậy, pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng là đại-thiện-nghiệp bậc thượng, chắc chắn không phải là ác-nghiệp sát-sinh được. Tuy nhiên, trong đời đối với số người tuyệt vọng cùng cực, không muốn sống trên đời này nữa, nên họ tự sát do sân-tâm chán ngán cuộc đời.

Xét theo nhânquả thì sân-tâm tuyệt vọng cùng cực là nhân đã phát sinh trước, rồi dẫn đến quả là tự sát. Tuy hành động tự sát này không phải là ác-nghiệp sát-sinh vì không hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh, nhưng người ấy chết do sân-tâm chán ngán cuộc đời, cho nên người sau khi chết khó tránh khỏi tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới.

Người nào gặp hoàn cảnh tuyệt vọng cùng cực, chán ngán không muốn sống do năng lực của sân-tâm là nguyên nhân dẫn đến tự sát, nên lúc lâm chung tâm bị ô nhiễm. Chính ý-ác-nghiệp phát sinh lúc lâm chung ấy cho quả trong thời kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới, không phải do ác-nghiệp tự sát.

[1] Nên tìm hiểu trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Thiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả