* Pháp-Hành-Trung-Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
Pháp-hành-trung-đạo (Majjhimāpaṭipadā) là một pháp-hành chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.
Trong Kinh Dhammacakkappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân mà Đức-Phật thuyết giảng lần đầu tiên, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī.
Hai Pháp Thấp Hèn
Đức-Phật thuyết giảng rằng:
– Này chư Tỳ-khưu! Có hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà bậc xuất gia không nên thực-hành theo.
Hai pháp ấy như thế nào?
1- Một là việc thường thụ hưởng lạc trong ngũ-dục do tâm-tham-ái hợp với thường-kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm-nhân trong đời, không phải pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại sự lợi ích, sự an lạc.
2- Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do sân-tâm và có đoạn-kiến thuộc về pháp-hành-khổ-hạnh của ngoại đạo, không phải pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại sự lợi ích, sự an lạc.
Pháp-Hành-Trung-Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
– Này chư Tỳ-khưu! Không thiên về hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến ấy, Như-Lai đã thực-hành theo pháp-hành-trung-đạo, nên đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền-não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
– Này chư Tỳ-khưu! Như thế nào gọi là pháp-hành-trung-đạo mà Như-Lai đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền-não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
– Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
– Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như-Lai đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn”.
Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng pháp-hành-trung-đạo chính là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Như vậy, 8 chánh này chính là 8 tâm-sở (cetasika) đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Thật ra, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có 36 tâm-sở đồng sinh. Trong 36 tâm-sở ấy chỉ có 8 tâm-sở gọi là bát-chánh-đạo như sau:
1- Trí-tuệ tâm-sở gọi là chánh-kiến,
2- Hướng-tâm tâm-sở gọi là chánh-tư-duy,
3- Chánh-ngữ tâm-sở gọi là chánh-ngữ,
4- Chánh-nghiệp tâm-sở gọi là chánh-nghiệp,
5- Chánh-mạng tâm-sở gọi là chánh-mạng,
6- Tinh-tấn tâm-sở gọi là chánh-tinh-tấn,
7- Niệm tâm-sở gọi là chánh-niệm,
8- Nhất-tâm tâm-sở gọi là chánh-định.
Tám tâm-sở này cùng với 28 tâm-sở khác đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Pháp-hành-trung-đạo đó là pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Như vậy, pháp-hành–bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này không phải là pháp-hành bắt đầu thực-hành, cũng không phải là pháp-hành đang thực-hành, mà sự thật là pháp-hành đã thực- hành xong rồi, đã hoàn thành xong mọi phận-sự tứ Thánh-đế, nên pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này gọi là Pháp-thành-Phật-giáo (Paṭivedhasāsana) là kết quả của pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).
Cho nên, pháp-hành-trung-đạo này là pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh ấy ởgiai đoạn cuối.
Bắt Đầu Thực Hành Pháp-Hành-Bát-Chánh-Đạo
* Giai đoạn đầu thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, hành-giả cần phải bắt đầu thực-hành chánh-niệm: niệm-thân, niệm-thọ, niệm-tâm, niệm-pháp, đó là thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ.
Thật vậy, trong kinh Rahogatasutta Ngài Đại-đức Anuruddha từng tư duy rằng:
“Hành-giả nào chán nản thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành-giả ấy được gọi là người chán nản thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, nên không thể dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
“Hành-giả nào tinh-tấn thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành giả ấy được gọi là người có tinh-tấn thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, nên có thể dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi…”
Như vậy, chánh-niệm đó là pháp-hành-tứ-niệm-xứ là nhân đầu dẫn đến quả cuối cùnglà Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Trong chú giải kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta-vaṇṇanā giảng giải rằng:
“Pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo” Tứ-niệm-xứ là phần đầu của bát-chánh-đạo.
Pháp-Hành-Trung-Đạo Là Pháp-Hành-Tứ-Niệm-Xứ
Trong chi bộ kinh, phần 3 chi pháp, Đức-Phật thuyết giảng về 3 pháp-hành (paṭipadā):
1- Āgāḷhā paṭipadā: Pháp-hành hưởng lạc cực đoan,
2- Nijjhāmāpaṭipadā: Pháp-hành khổ hạnh cực đoan,
3- Majjhimāpaṭipadā: Pháp-hành-trung-đạo.
Đức-Phật thuyết giảng về pháp-hành-trung-đạo rằng:
– Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là thế nào?
– Này chư Tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, tỳ-khưu:
1- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thân trong phần thân-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này,
2- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực
giác thấy rõ, biết rõ các thọ trong phần thọ-niệm- xứ , để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này.
3- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tâm trong phần tâm-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này.
4- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các pháp trong phần pháp-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này…”
Như vậy, phần đầu của Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, và phần cuối của Pháp-hành-trung-đạo là bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Pháp-hành-trung-đạo có 2 giai đoạn:
1- Giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo,
2- Giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành diệt tham- tâm hài lòng (abhijjhā) và diệt sân-tâm bực mình (domanassa) đồng thời cũng diệt si-tâm tăm tối không thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, để cho trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới gồm có 16 loại trí-tuệ-thiền-tuệ.
1– Giai Đoạn Đầu Của Pháp-Hành-Trung-Đạo
* Giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo là hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ để phát sinh trí-tuệ từ trí-tuệ thứ nhất gọi là Nāmarūpaparicchedañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới đúng theo chân-nghĩa-pháp đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, v.v… Tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự,
Đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 gọi là udayabbayā-nupassanāñāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
Và các trí-tuệ-thiền-tuệ tuần tự phát sinh cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi là Gotrabhu-ñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ chuyển tánh từ dòng phàm-nhân sang dòng Thánh-nhân. Trí-tuệ-thiền-tuệ này có khả năng đặc biệt tiếp nhận đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, song tâm vẫn còn dục-giới-đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
Đó là giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo.
2– Giai Đoạn Cuối Của Pháp-Hành-Trung-Đạo,
* Giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo là hành-giả đã chứng đắc đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là Maggañāṇa: Thánh-đạo-tuệ đồng sinh với Thánh-đạo-tâmvà trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 15 gọi là Phalañāṇa: Thánh-quả-tuệ đồng sinh với Thánh-quả-tâm, có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới. Khi ấy, chắc chắn có bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm ấy.
Đó là giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
[1] Saṃ., Mahāvaggapāḷi, Kinh Dhammacakkappavattanasutta
[2] Saṃyuttanikāya, bô, Mahāvaggapāḷi, kinh Rahogatasutta
Thực Hành Pháp-Hành-Trung-Đạo
Pháp-hành-trung-đạo (Majjhimāpaṭipadā) là pháp-hành mà hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết các đối-tượng-tứ-niệm-xứ là thân, thọ, tâm, pháp hoặc đối-tượng-thiền-tuệ là tất cả mọi sắc-pháp, tất cả mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp một cách rành rẽ.
Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành có khả năng diệt tham-tâm hài lòng (abhijjhā) và diệt sân-tâm bực mình (domanassa) trong đối-tượng tứ-niệm-xứ ấy, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp,
danh-pháp ấy, đồng thời diệt si-tâm tối tăm che phủ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
* Thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo như thế nào?
Số hành giả không thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không học hỏi, nghiên cứu về môn học vi-diệu-pháp, không hiểu rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã.
Hành giả không hiểu rõ tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là khổ-đế (dukkha-sacca) là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyya) khổ-đếvới trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
Do chưa hiểu rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới, chưa hiểu biết trí-tuệ-hành phận sự nên biết (pariññeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới như vậy, nên khi thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành-giả coi trọng đối-tượng niệm-xứ này, coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia. Hoặc khi thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả coi trọng đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp này, coi khinh đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp kia.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có tâm thiên vị trong đối-tượng niệm-xứ hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, khi thì tham-tâm hài lòng phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ này, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp này, khi thì sân-tâmbực mình phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp kia.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, không diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng niệm-xứ này hoặc đối-tượng-thiền-tuệ này, và không diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ kia hoặc đối-tượng-thiền-tuệ kia.
Cho nên, hành giả thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Hơn nữa, khi có tham-tâm hoặc sân-tâm phát sinh, ắt có si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm, sân-tâm ấy, nên che phủ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp. Vì vậy, hành-giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm, làm đối-tượng-thiền-tuệ.
* Nếu khi hành-giả coi trọng đối-tượng sắc-ngồi thì tham-tâm hài lòng nơi sắc-ngồi ấyphát sinh, chắc chắn có si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm ấy che phủ thật-tánh sắc-pháp của sắc-ngồi ấy.
* Nếu khi có phóng-tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác), nên tâm buông bỏ đối-tượng sắc-ngồi ấy, nếu hành giả coi khinh phóng-tâm tâm-sở (uddhaccacetasika) thuộc về danh-pháp thì sân-tâm bực mình phát sinh, bởi vì phóng-tâm làm mất đối-tượng sắc-ngồi ấy. Sân-tâm phát sinh chắc chắn có si-tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ấy làm che phủ thật-tánh của danh-pháp của phóng-tâm tâm-sở ấy.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng sắc-ngồi, không diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-ngồi và cũng không diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng danh-pháp phóng-tâm, trong khi đang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi ấy.
Cho nên, hành giả thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
* Thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo như thế nào?
Số hành-giả thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật giáo, thường học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết về môn học vi-diệu-pháp, hiểu biết thật-tánh tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là pháp-vô-ngã (không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, không phải vật này, vật kia, v.v…
Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ,trạng-thái-vô-ngã.
Hành-giả hiểu biết rõ tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là khổ-đế là pháp mà trí-tuệ-hành có phận-sự nên biết (pariñ-ñeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
Do nhờ có yonisomanasikāra trí-tuệ hiểu biết đúng 4 trạng-thái của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là vô-thường, khổ, vô-ngã, bất-tịnh, nên khi thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả không coi trọng đối-tượng niệm-xứ này, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp này, cũng không coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp kia. Hành giả không có tâm thiên vị trong các đối-tượng-tứ-niệm-xứ hoặc các đối-tượng-thiền-tuệ.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, đặt tâm-trung-dung nơi đối-tượng-niệm-xứ hoặc nơi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, nên tham-tâm hài lòng không phát sinh nơi đối-tượng-niệm-xứ này, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp này, và sân-tâm bực mình cũng không phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp kia.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ đúng theo pháp-hành-trung-đạo (majjhimapaṭipadā), nên diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng-niệm-xứ, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ hoặc nơi đối-tượng-thiền-tuệ.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ có sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm; hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng-thiền-tuệ.
* Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ với đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi là sắc-pháp phát sinh do tâm, gọi là sắc-ngồi, hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi là sắc-pháp phát sinh do tâm, đó là tư thế ngồi, dáng ngồi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ với đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi,hoặc pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi, hành-giả không coi trọng đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi gọi là sắc-ngồi, nên tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-ngồi ấy không phát sinh, chỉ có trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp ấy mà thôi.
* Nếu khi có phóng-tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác), làm cho tâm buông bỏ đối-tượng sắc-ngồi ấy thì hành-giả không coi khinh phóng-tâm tâm-sở (uddhaccacetasika) thuộc về danh-pháp, nên sân-tâm bực mình không phát sinh, chỉ có trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp mà thôi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-pháp của sắc-ngồi ấy, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng danh-pháp của phóng-tâm tâm-sở ấy.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo do biết đặt tâm-trung-dungtrong tất cả mọi đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc mọi đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp, bởi vì hành-giả không coi trọng đối-tượng niệm-xứ này hoặc đối-tượng-thiền-tuệ này, cũng không coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia hoặc đối-tượng-thiền-tuệ kia.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, hiểu biết rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, không hơn không kém, đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Sở dĩ, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo là vì có yonisomanasikāra hỗ trợ hiểu biết trong tâm với trí-tuệ hiểu biết đúng 4 trạng-thái: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
Thật vậy, * sắc-ngồi là 1 trong đối-tượng tứ-oai-nghi trong thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ,
trạng-thái-vô-ngã, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
*Phóng-tâm đó là phóng-tâm tâm-sở (uddhac-cacetasika) là 1 trong đối-tượng 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇapabba) trong pháp-niệm-xứ thuộc về danh-pháp cũng có sự sinh, sự diệt, cũng có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, cũng có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Dù đối-tượng sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp hoặc dù đối-tượng phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp thì tâm của hành-giả vẫn có chánh-niệm trực nhận đối-tượng ấy, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của đối-tượng sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp hoặc của đối-tượng phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp ấy một cách trung-dung, không hơn không kém, không coi trọng đối-tượng sắc-ngồi, cũng không coi khinh đối-tượng phóng-tâm.
Khi phóng-tâm diệt, hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ trở lại đối-tượng sắc-ngồi cũ như trước.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ trong giai đoạn đầu đúng theo pháp-hành-trung-đạo, vì không thiên về 2 pháp cực đoan là tham-tâm vàsân-tâm, nên diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng-niệm-xứ ấy hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ ấy, hoặc đối-tượng-thiền-tuệấy, đồng thời diệt được si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm ấy, hoặc sân-tâm ấy, nên trí-tuệ-thiền-tuệ tiến triển từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Khi chứng đắc 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn, siêu-tam-giới.
Khi ấy, bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
Đó là giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
(Xong phần giải thích tóm tắt trong kinh Chuyển-Pháp-Luân).
Đoạn Kết
Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân lần đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Đại-trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī.
Kinh Chuyển-Pháp-Luân này là một bài kinh tối ư quan trọng trong giáo pháp của Đức-Phật. Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng về tứ Thánh-đế, là pháp căn bản, cốt lõi trong Phật-giáo, tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự như sau:
1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật-giáo, chuyển đến
2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo, chuyển đến
3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong mỗi Thánh-đế thuộc về pháp-thành Phật-giáo đó là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-Bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-nãokhông còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán. Hành-giả biết rõ phạm-hạnh cao thượng đã hoàn thành, kiếp này là kiếp chót sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Như vậy, kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân này là bài kinh tóm lược được phần căn bản cốt lõi tứ Thánh-đế, và tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo.
Rằm tháng sáu
Phật-Lịch 2557/2013
Chùa Tổ Bửu-Long,
Q.9, Tp. Hồ-Chí-Minh.
Tỳ-Khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)