BỔN PHẬN NGƯỜI CON ÐỐI VỚI CHA MẸ
Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với các con thật lớn lao vô lượng; bổn phận làm con, dầu là bậc xuất gia cũng như người tại gia đều phải lo phụng dưỡng cha mẹ.
Trong kinh Singalakasutta, Ðức Phật thuyết pháp tế độ cậu Singalaka con của ông trưởng giả trong kinh thành Ràjagaha, trong bài kinh Ðức Phật dạy có đoạn người con có bổn phận đối với cha mẹ như sau (Dìghanikàya, phần Pàthikavagga, kinh Singalakasutta):
Cha mẹ là hướng đằng trước mặt, phận sự người con trai, con gái có 5 điều đối với cha mẹ:
– Cha mẹ đã nuôi dưỡng các con, vậy các con phải có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục.
– Các con phải có bổn phận đảm đương lo công việc của cha mẹ.
– Các con phải có bổn phận giữ gìn dòng dõi, nối dòng.
– Các con tỏ ra người con xứng đáng thừa hưởng tài sản, sự nghiệp của cha mẹ để lại.
– Khi cha mẹ qua đời rồi, các con phải có bổn phận làm phước thiện, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho cha mẹ.
Các con phải làm tròn 5 bổn phận đối với cha mẹ.
* Ðối với người con tại gia:
Mỗi buổi sáng thức dậy sớm trước cha mẹ, người con đun nước rửa mặt, chuẩn bị khăn lau dâng đến cha mẹ; mang bộ quần áo sạch sẽ đến dâng cho cha mẹ. Thay xong, đảnh lễ cha mẹ, rồi đem bộ quần áo dơ đi giặt.
Hàng ngày, người con đem cơm nước ngon lành đến dâng cha mẹ, khi cha mẹ muốn tắm rửa, đem nước ấm dâng đến cha mẹ, lúc khí trời lạnh; buổi tối, người con nên xoa bóp thân thể cha mẹ, để cho máu huyết lưu thông dễ dàng, giãn gân cốt, bớt mỏi mệt. Khi cha mẹ bị bệnh hoạn ốm đau, người con cần phải tìm thầy giỏi, thuốc hay, để về chữa trị cho cha mẹ chóng khỏi bệnh….
Người con phải biết lễ phép, kính trọng cha mẹ, lắng nghe lời khuyên dạy của cha mẹ; bổn phận người làm con cần phải biết lo phụng dưỡng cha mẹ cho đến hết tuổi thọ.
* Ðối với bậc xuất gia là Sa di, Tỳ khưu:
Dầu là vị Sa di, vị Tỳ khưu cũng phải có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ như người tại gia; song có đôi việc không nên làm như: vị Sa di, vị Tỳ khưu không nên đảnh lễ cha mẹ; vị Tỳ khưu không nên đụng chạm trực tiếp đến thân hình của thân mẫu (Tỳ khưu bất đắc dĩ đụng đến thân hình của thân mẫu thì phạm giới tác ác – dukkata).
Ngoài ra, vị Sa di, vị Tỳ khưu có thể lo phụng sự mọi việc, để đem lại sự an lạc cho cha mẹ.
Ðức Phật cho phép Sa di, Tỳ khưu lo phụng dưỡng cha mẹ bằng những thứ vật dụng của mình như: vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh…. Ðó là việc làm theo truyền thống của chư bậc Thiện trí từ quá khứ cho đến hiện tại.
Bậc Thiện trí tán dương ca tụng những người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ của mình; trích dẫn những tích truyện như sau:
Tích Vị Tỳ Khưu Phụng Dưỡng Cha Mẹ
Một người con trai của một gia đình phú hộ trong kinh thành Sàvatthi, khi đến nghe Ðức Phật thuyết pháp, người con trai ấy phát sanh đức tin trong sạch, xin phép cha mẹ đi xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Sau khi trở thành Tỳ khưu, cùng sống với vị Thầy Tế độ suốt 5 năm, theo học pháp học và pháp hành giới – định – tuệ.
Sau đó, vị Tỳ khưu ấy xin phép vị Thầy Tế độ rời khỏi ngôi chùa Jetavana đi đến một nơi xa ở trong rừng để hành đạo.
Gia đình ông bà phú hộ gặp cảnh sa sút, tài sản bị khánh kiệt, cho đến nỗi hai ông bà phải đi ăn xin, nương nhờ dưới mái nhà của người khác, để sống qua ngày.
Nghe tin cha mẹ của mình đang lâm vào cảnh khổ, vị Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: “Ta đã hành đạo suốt 12 năm qua, mà vẫn chưa chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả nào; có lẽ ta là người chưa có đủ pháp hạnh Ba-la-mật. Vậy, ta nên hoàn tục trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già đang lâm vào hoàn cảnh khổ, và làm phước thiện bố thí, giữ giới, hành thiền… để tạo duyên lành cho kiếp sau”.
Nghĩ xong, vị Tỳ khưu ấy ra khỏi khu rừng, trên đường trở về kinh thành Sàvatthi, nghĩ rằng: “Hôm nay, ta đến hầu Ðức Thế Tôn nghe pháp xong, ngày mai sẽ đi tìm gặp cha mẹ”.
Canh chót đêm hôm ấy, Ðức Thế Tôn sau khi xả đại bi định, quán xét chúng sinh có duyên lành nên tế độ; trong mạng lưới đại bi, Ðức Thế Tôn nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy có duyên lành chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Vị Tỳ khưu ngồi nghe pháp trong nhóm các hàng đệ tử, Ðức Thế Tôn thuyết bài kinh Màtuposakasutta: ca tụng ân đức cha mẹ đối với con, bổn phận làm con, cả hàng tại gia lẫn bậc xuaát gia đều có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ.
Nghe bài kinh xong, vị Tỳ khưu nghĩ rằng: “Ta vốn có ý định hoàn tục để lo phụng dưỡng cha mẹ, nay Ðức Thế Tôn thuyết pháp dạy bậc xuất gia cuõng có thể phụng dưỡng cha mẹ được. Vậy, ta chớ nên hoàn tục, ta là Tỳ khưu cũng có thể phụng dưỡng cha mẹ được”.
Vị Tỳ khưu đi tìm gặp cha mẹ đem về phụng dưỡng; làm nhà cho cha mẹ ở đàng hoàng, hàng ngày Ngài đi khất thực có được cháo, cơm đồ ăn đem về phụng dưỡng cha mẹ trước, còn về phần Ngài, sau đó, đi khaát thực có được Ngài sẽ thọ thực sau, có bữa no bữa đói cho nên thân thể của Ngài càng ngày càng gầy mòn. Khi được tấm vải mới nào, Ngài đem dâng đến cho cha mẹ mặc; Ngài lấy tấm vải cũ của cha mẹ, giặt sạch, nhuộm màu, may y để Ngài mặc.
Hàng ngày, Ngài có phận sự lo phụng dưỡng cha mẹ hơn lo cho thân mình. Do đó, Ngài có vẻ gầy guộc xanh xao.
Chư vị Tỳ khưu khác gặp hỏi, Ngài trình bày sự thật lo phụng dưỡng cha mẹ như vậy, quý vị Tỳ khưu khác chê trách Ngài, rồi bạch chuyện này lên Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn cho người gọi vị Tỳ khưu ấy đến, bèn hỏi rằng:
— Này con, hai ông bà già mà con phụng dưỡng là ai vậy con?
— Kính bạch Ðức Thế Tôn, hai ông bà già ấy là thân mẫu và thân phụ của con.
Nghe vị Tỳ khưu bạch như vậy, Ðức Thế Tôn bèn tán dương ca tụng rằng: Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
— Con đã hành theo con đường xưa, theo truyền thống của Như Lai đã hành, Ngài thuyết về tiền kiếp của Ngài sanh làm đạo sĩ Suvannasàma đã phụng dưỡng cha mẹ mù đều là đạo sĩ ở trong rừng (Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
— Sự phụng dưỡng cha mẹ là việc làm theo truyền thống của chư bậc Thiện trí.
Nhân dịp ấy, Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chư Tỳ khưu, vị Tỳ khưu phụng dưỡng cha mẹ ấy đã chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Phụng Dưỡng Cha Mẹ Thoát Khỏi Nạn Chết
Trong thời quá khứ, Ðức Bồ Tát Suvanna-sàma, tiền thân Ðức Phật Gotama của chúng ta, là vị đạo sĩ phụng dưỡng cha mẹ, đều là hai vị đạo sĩ mù, trong khu rừng lớn gần bờ sông Migasammatà (Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Vào thời kỳ ấy, đức vua Pìliyakkha trị vì kinh thành Bàrànasì, Ðức Vua có thú săn nai ăn thịt; một mình ngự vào rừng núi Himavanta, nhìn thấy dấu chân nai trên đường đi lấy nước uống, nước dùng của đạo sĩ Suvannasàma; Ðức Vua ẩn mình một nơi, nhìn thấy đạo sĩ Ðức Bồ Tát cùng với một đàn nai đi xung quanh trên đường mang nước trở về, vào lúc buổi chiều. Ðức Vua giương cung nạp mũi tên có tẩm thuốc độc, bắn trúng Ðức Bồ Tát, Ðức Bồ Tát nằm quỵ xuống đau quằn quại, với lời than vãn thống thiết dịu dàng êm ái; chỉ nghĩ đến cha mẹ già đui mù, không ai hái trái cây chín, đem nước uống, nước dùng về phụng dưỡng cha mẹ.
Lắng nghe lời than vãn, Ðức Vua nghĩ rằng: vị đạo sĩ này, dầu bị bắn trúng mũi tên độc, đau quằn quại, mà không có một lời trách móc ta, chỉ nghe lời than vãn dịu dàng êm ái.
Ðức Vua ngự đến nhìn thấy Ðức Boà Tát đang đau khổ, làm cho Ðức Vua cảm động, ân hận trào nước mắt.
Một thiên nữ tên Bahusundarì thường trú ở núi Gandhamàdana đã từng là thân mẫu của Ðức Bồ Tát kiếp thứ 7 trong quá khứ, tình mẹ thương con, nên thường nghĩ đến Ðức Bồ Tát. Ngày hôm ấy, vị thiên nữ nhìn thấy Ðức Bồ Tát đang trong cơn bất tỉnh, xem xét biết rõ mọi việc xảy ra, nghĩ rằng: “Nếu ta không đến nơi ấy để cứu giúp, thì Ðức Bồ Tát con của ta sẽ chết, cha mẹ của Ðức Bồ Tát không có vật thực, nước uống cũng sẽ chết, ngay đức vua Pìliyakkha ân hận đến nỗi vỡ tim phải băng hà. Nhưng ta đến cứu giúp, yêu cầu Ðức Vua đến gặp cha mẹ của Ðức Bồ Tát, dẫn cha mẹ của Ngài đến sẽ nguyện bằng lời chân thật, và chính ta cũng nguyện bằng lời chân thật. Do những lời chân thật ấy sẽ giúp cho Ðức Bồ Tát thoát khỏi nạn tử thần, đồng thời cha mẹ của Ðức Bồ Tát có đôi mắt sáng trở lại, Ðức Vua nghe Ðức Bồ Tát thuyết pháp, khi trở về trị vì đất nước bằng thiện pháp, lúc băng hà, do thiện nghiệp sẽ cho quả tái sanh lên cõi trời dục giới.
Vị thiên nữ hiện đến đứng trên hư không tâu rằng:
— Tâu Ðại Vương, Người nên thay Ðức Bồ Tát Sàma phụng dưỡng cha mẹ của Ðức Bồ Tát, như vậy, Ðại Vương sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả, sẽ được tái sanh cõi thiên giới.
Nghe lời khuyên của vị thiên nữ, Ðức Vua liền ngự đến tìm gặp cha mẹ của Ðức Bồ Tát, kể lại mọi sự việc xảy ra. Cha mẹ của Ðức Bồ Tát tâu rằng:
— Tâu Ðại Vương, nếu như vậy, xin Ðại Vương từ bi dẫn hai chúng tôi đến tận nơi Suvannasàma.
Cha mẹ của Ðức Bồ Tát đến nơi sờ vào thân mình của Suvannasàma nguyện bằng lời chân thật rằng:
“Sàma thường hành thiện pháp, phụng dưỡng cha mẹ, do lời chân thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy tiêu tan”.
Nguyện xong lời chân thật, thân của Ðức Bồ Tát có thể bắt đầu cử động, tiếp theo vị thiên nữ nguyện rằng:
“Tôi trú tại núi Gandhamàdana trải qua thời gian lâu rồi, không thương yêu ai hơn Sàma con của tôi. Do lời chân thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy tiêu tan”.
Vừa dứt lời nguyện chân thật của vị thiên nữ, những điều phi thường xảy ra cùng một lúc:
– Ðức Bồ Tát Suvannasàma bình phục như xưa.
– Cha mẹ của Ðức Bồ Tát có đôi mắt sáng trở lại.
– Mặt trời vừa rạng đông.
– Cả 4 người đều có mặt trong am của đạo sĩ, do năng lực của vị thiên nữ.
Khi ấy, Ðức Bồ Tát thuyết pháp tế độ Ðức Vua rằng:
— Này Ðại Vương, người nào biết lo phụng dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, chư thiên hộ trì người ấy.
Người nào biết lo phụng dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, chư bậc Thiện trí tán dương ca tụng người ấy trong đời này; người ấy sau khi từ bỏ cuộc đời này, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sanh lên cõi thiện giới hưởng mọi sự an lạc ở cõi ấy.
Này Ðại Vương, nếu Ðại Vương muốn kiếp sau tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, thì xin Ðại Vương nên thực hành 10 Pháp vương (Ràjadhamma) như sau:
1- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương phụng dưỡng hoàng thái hậu và thái thượng hoàng bằng thiện pháp trong đời này; do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.
2- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương có tâm từ bi tế độ hoàng tử, công chúa và hoàng hậu bằng thiện pháp trong đời này, do thiện pháp aáy cho quả tái sanh lên cõi trời.
3- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương đối xử với các quan trong triều bằng thiện pháp trong đời này….
4- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương có tâm từ bi tế độ voi, ngựa, và quaân lính bằng thiện pháp trong đời này….
5- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương đối xử với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành bằng thiện pháp trong đời này….
6- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương đối xử với thần dân các vùng xa và biên giới bằng thiện pháp trong đời này….
7- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương hộ độ chư Sa môn, Bà la môn một cách cung kính trong đời này….
8- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương có tâm từ, bi đối với đàn thú như: nai, chim… bằng thiện pháp trong đời này….
9- Này Ðại Vương, xin Ðại Vương thường thực hành thiện pháp trong đời này rồi, chính thiện pháp ấy đem lại sự an lạc trong đời này, nhờ thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời.
10- Này Ðại Vương, Ðức Vua trời Inda cùng chư thiên, chư phạm thiên hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời đều do nhờ quả thiện pháp. Vậy xin Ðại Vương chớ nên dễ duôi trong mọi thiện pháp.
Giải thích 10 Pháp vương (Ràjadhamma)
Ðiều 1: Phụng dưỡng Hoàng Thái Hậu – Thái Thượng Hoàng: Ðức Vua mỗi ngày thức dậy sớm, tự mình đem nước rửa mặt, súc miệng dâng đến hai Người, mang vật thực… đem dâng đến 2 Người….
Ðiều 2: Tế độ hoàng tử, công chúa: Ðức Vua dạy dỗ hoàng tử, công chúa tránh xa mọi việc ác, cố gắng hành mọi việc thiện, cho học hành văn võ song toàn, đến khi trưởng thành, tìm nơi xứng đáng cho làm lễ kết hôn, ban cho của cải, sự nghiệp….
Tế độ hoàng hậu: tấn phong địa vị xứng đáng, không nên coi thường, giao quyền làm lớn trong nội cung, ban cho những đồ trang sức….
Ðiều 3: Ðối xử các quan trong triều bằng 4 pháp tế độ:
– Ban thưởng người đáng ban thưởng. – Nói lời đáng yêu mến. – Nói điều đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài. – Sống hoà mình với các quan, vui cùng hưởng, khổ cùng chịu.
Ðiều 4: Từ, bi tế độ voi, ngựa, quân lính: Ðối với ngựa già yếu cho nghỉ ngơi, cho ăn uống đầy đủ, chăm nom săn sóc chúng; và những người lính già cho về hưu trí, hưởng tiền trợ cấp hàng tháng cho đến chết.
Ðiều 5: Ðối với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành: Không nên có sưu cao thuế nặng, làm cho thần dân cực khổ.
Ðiều 6: Ðối với thần dân các vùng xa và biên giới: Khi gặp cảnh hạn hán đói khổ, nên phát chẩn cứu giúp họ.
Ðiều 7: Hộ độ chư Sa môn, Bà la môn: Ðối với chư Sa môn, Bà la môn nên cúng dường 4 thứ vật dụng: vật thực, y phuïc, chỗ ở, thuốc trị bệnh.
Ðiều 8: Ðối với các đàn thú như đàn nai, đàn chim… các loài thú vật có 4 chân, 2 chân… không nên sát hại chúng, nên tôn trọng sanh mạng của muôn loài.
Ðiều 9: Hành thiện pháp, đó là 10 thiện nghiệp: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích, không tham lam, không thù hận, có chánh kiến; hành 10 phước thiện: bố thí, giữ giới, hành thiền v.v….
Ðiều 10: Chư thiên, Ðức Vua trời Inda, chư phạm thiên, hưởng mọi sự an lạc cõi trời, đều do nhờ quả thiện pháp.
Dục giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời dục giới. Sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới. Vô sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời vô sắc giới.
Cuối cùng Ðức Bồ Tát khuyên Ðức Vua rằng:
“Mà dhammam Ràja pamàdo”.
“Này Ðại Vương, vì vậy, xin Ðại Vương chớ nên dễ duôi trong mọi thiện pháp”.
Lắng nghe Ðức Bồ Tát thuyết pháp xong, Ðức Vua vô cùng hoan hỉ, phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới, xin phép từ giả Ðức Bồ Tát hồi cung. Từ đó về sau, Ðức Vua giữ gìn ngũ giới, nghiêm chỉnh thực hành 10 pháp vương (ràjadhamma) mà Ðức Bồ Tát đã dạy, trị vì đất nước bằng thiện pháp cho đến khi băng hà. Sau khi bằng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời.
Ðức Bồ Tát và cha mẹ của Ngài tiến hành thiền định, chứng đắc bậc thiền. Sau khi chết, do bậc thiền sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên, hưởng sự an lạc và tuổi thọ lâu dài trên cõi trời sắc giới phạm thiên ấy.
Tích Người Nghèo Sutana
Thời quá khứ, trong kinh thành Bàrànasì, Ðức Bồ Tát Sutana tiền thân của Ðức Phật Gotama là người nghèo làm thuê phụng dưỡng cha mẹ, khi cha qua đời, lo phụng dưỡng mẹ (Bộ Jàtaka, chuyện Sutanajàtaka).
Vào thời ấy, Ðức Vua kinh thành Bàrànasì có thú săn Nai; một hôm, Ðức Vua cùng các quan ngự vào rừng, Ðức Vua truyền lệnh rằng:
— Nai chạy về hướng người nào, người ấy phải bắt cho được.
Khi ấy, một con nai chạy về phía Ðức Vua, Ðức Vua lấy cung nạp tên bắn, con nai làm bộ trúng tên nằm lăn xuống đất, Ðức Vua vừa ngự đến bắt, con nai đứng dậy bỏ chạy, Ðức Vua đuổi theo kịp dùng thanh gươm chặt nó làm 2 phần, lấy cây gánh ngự trở lại; vì mệt quá, nên Ðức Vua ghé lại gốc cây da nằm nghỉ, một lát đứng dậy ngự trở về.
Tại cây da ấy, có dạ xoa tên Maghadeva thường trú nơi ấy, hiện ra nắm tay Ðức Vua và bảo rằng:
— Hãy đứng lại! hôm nay nhà ngươi là vật thực của ta.
Ðức Vua hoảng sợ truyền rằng:
— Ngươi chỉ ăn thịt ta ngày hôm nay thôi, hay ngươi ăn thịt hàng ngày?
Dạ xoa bảo rằng:
— Khi có thịt, ta sẽ ăn hàng ngày.
Ðức Vua truyền rằng:
— Ta là Ðức Vua trị vì ở kinh thành Bàrànasì này, hôm nay, ngươi ăn món thịt Nai này, ngươi hãy tha cho ta hồi cung; bắt đầu ngày mai, mỗi ngày ta sẽ nạp một người, mang thưùc ăn đến, cho ngươi ăn thịt.
Dạ xoa bảo rằng:
— Như vậy, nhà ngươi đừng thất hứa, ngày nào nếu ngươi không nạp người mang mâm đồ ăn đến cho ta, ta sẽ bắt ngươi ăn thịt.
Ðức Vua cam kết nghiêm chỉnh làm theo lời hứa; dạ xoa tha chết, cho phép Ðức Vua hồi cung.
Khi hồi cung, bắt đầu ngày thứ 2, Ðức Vua truyền lệnh mỗi ngày bắt phạm nhân đem một mâm đồ ăn đến nạp cho dạ xoa, dạ xoa ăn mâm đồ ăn xong rồi ăn thịt người ấy.
Qua một thời gian lâu, những phạm nhân không còn, những tù nhân thường cũng không có; Ðức Vua hoảng sợ, nếu không có người nạp cho dạ xoa ăn thịt, thì dạ xoa sẽ bắt Ðức Vua mà ăn thịt, nên Ðức Vua cho người cỡi voi đem theo 1.000 đồng tiền vàng (kahàpana) truyền chiếu chỉ rằng:
— Ai có khả năng đem mâm vật thực đến nạp cho dạ xoa, sẽ được thưởng 1.000 đồng vàng này.
Nghe như vậy, Ðức Bồ Tát xin nhận 1.000 đồng vàng đem về dâng cho mẹ, rồi xin vào yết kiến Ðức Vua.
Ðức Vua truyền hỏi:
— Nhà ngươi sẽ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ xoa có phải không?
— Tâu Ðại Vương, dạ vâng, kẻ tiện dân này seõ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ xoa.
— Nhà ngươi cần những gì? -Ðức Vua truyền.
— Tâu Ðại Vương, kẻ tiện dân này cần đôi hài vàng, 1 chiếc lọng vàng, và 1 thanh kiếm báu của Ðại Vương.
— Tại sao nhà ngươi cần những thứ quý báu ấy? – Ðức Vua truyền hỏi.
Ðức Bồ Tát giải thích rằng:
— Tâu Ðại Vương, bởi vì, dạ xoa chỉ được pheùp ăn thịt người đứng trên mặt đất và dưới bóng cây trong phạm vi của y mà thôi; còn tiện dân đứng trên đôi hài vàng và dưới bóng của chiếc lọng vàng, thì dạ xoa không được phép ăn thịt tiện dân. Và thông thường hàng phi nhân sợ người có khí giới trong tay; khi tiện dân có thanh kiếm báu trong tay, thì dạ xoa không dám đến gần, nếu y tiến đến bắt tiện dân ăn thịt, thì tiện dân sẽ giết chết y bằng thanh kiếm báu này.
Nghe lời giải thích của Ðức Bồ Tát, Ðức Vua rất hài lòng và truyền bảo rằng:
— Nhà ngươi cần thứ gì nữa?
— Tâu Ðại Vương, những thứ đồ ăn đặt trên một chiếc mâm thường, không xứng đáng với hạng người trí như tiện dân. Vì vậy, xin đặt những đồ ăn trên chiếc mâm bằng vàng, mà Ðại Vương thường dùng hàng ngày.
Ðức Vua ban cho Ðức Bồ Tát Sutana những thứ ấy, và cho lính theo hầu hạ Ðức Boà Tát. Nhờ lính mang theo những thứ báu ấy, đến gần nơi ở của dạ xoa, Ðức Bồ Tát bảo họ chờ nơi ấy, Ðức Bồ Tát mang đôi hài vàng, che chiếc lọng vàng trên đầu, đặt mâm đồ ăn trên đầu thanh kiếm báu, đứng phía ngoài ranh giới của bóng cây, trao mâm đồ ăn cho dạ xoa.
Dạ xoa nghĩ rằng: “Ta sẽ lừa người này vào trong bóng cây này, rồi ăn thịt y”, nên động viên khuyến khích rằng:
— Xin mời bạn vào đây, chúng ta cùng nhau dùng vật thực.
Ðức Bồ Tát bảo rằng:
— Ta nói cho ngươi biết, ngươi chớ hòng lừa ta. Hôm nay, Ðức Vua nạp ta cho ngươi ăn thịt. Nhưng ngươi không có quyền ăn thịt ta được, bởi vì, hôm nay ta đến đây, ta đứng trên đôi hài vàng của Ðức Vua, không đứng trên phạm vi mặt đất của ngươi; và ta đứng dưới chiếc lọng vàng của Ðức Vua, không đứng dưới bóng cây của ngươi. Như vậy, ngươi không có lý do gì để ăn thịt ta được.
Nếu ngươi muốn cố ý ăn thịt ta, thì ta sẽ dùng thanh kiếm báu của Ðức Vua giết chết ngươi hôm nay.
Lắng nghe lời nói hùng hồn, cương quyết của Ðức Bồ Tát, dạ xoa nghĩ rằng: “Người này nói rất đúng, một con người dũng cảm, không hề biết sợ”. Dạ xoa phát sanh đức tin trong sạch với Ðức Bồ Tát, xin nhận món đồ ăn. Ăn xong dạ xoa thưa rằng:
— Kính thưa bậc Thiện trí, xin Ngài trở về được an toàn, thân mẫu của Ngài đang trông chờ Ngài, và Ngài cũng gặp lại thân mẫu.
Ðức Bồ Tát dạy rằng:
— Này bạn, kiếp trước bạn đã tạo ác nghiệp nên tái sanh làm kiếp dạ xoa ăn thịt người, kể từ nay về sau, xin bạn chớ nên tạo ác nghiệp như sát sanh v.v… nữa.
Ðức Bồ Tát thuyết giảng quả báu của sự giữ ngũ giới, và tội lỗi của sự phá giới.
Dạ xoa phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới…. Ðức Bồ Tát động viên khuyến khích rằng:
— Này bạn, bạn ở trong rừng này không ích lợi gì đâu! Xin bạn hãy đi với tôi ra ngoài kinh thành. Dạ xoa nghe lời khuyên của Ðức Bồ Tát, nên mang những vật báu đi theo sau Ðức Bồ Tát.
Nghe tin Ðức Bồ Tát trở về, Ðức Vua ngự ra đón rước Ðức Bồ Tát, Ðức Vua cho phép dạ xoa thường trú tại cổng thành, hàng ngày được mọi sự lợi lộc, Ðức Vua mời Ðức Bồ Tát về cung điện, tấn phong Ðức Bồ Tát địa vị quân sư, Ðức Vua cung kính lắng nghe lời dạy bảo của Ðức Bồ Tát.
Ðức Bồ Tát phụng dưỡng mẹ già được đầy đủ, hưởng mọi sự an lạc cho đến mãn kiếp.
Ðức Vua trị vì đất nước bằng thiện pháp, sau khi băng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời.
Tích Con Kên Kên Chúa
Thời quá khứ, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama, sanh làm con kên kên chúa phụng dưỡng cha mẹ già đui mù ở động kên kên. Hàng ngày, kên kên chúa tìm thịt tha về phụng dưỡng cha mẹ (Bộ Jàtaka Sattakanipàta, chuyện Màtupasakagijjha-jàtaka).
Một hôm, người thợ săn tên Nilìya đặt bẫy trong nghĩa địa gần thành Bàrànasì, Ðức Bồ Tát đi tìm thịt trong nghĩa địa chẳng may bị mắc bẫy, Ngài không hề nghĩ đến mình, mà nằm nghĩđến cha mẹ già đui mù than vãn rằng: “Song thân già đui mù của ta sẽ ra sao? Song thân không biết ta đã bị mắc bẫy, rồi song thân không có nơi nương nhờ, không có vật thực, rồi song thân ta sẽ chết khô trong động mà thôi!”.
Người thợ săn lắng nghe con kên kên than khóc bèn hỏi rằng:
— Này kên kên, người than khóc gì vậy, ta chưa từng thấy, chưa từng nghe loài chim lại nói được tiếng người như vậy?
Kên kên chúa đáp rằng:
— Này người thợ săn, tôi có phận sự lo phụng dưỡng cha mẹ già đui mù ở trong động, bây giờ tôi đã bị mắc bẫy của người rồi, cha mẹ của tôi sẽ ra sao?
Người thợ săn hỏi:
— Này kên kên, người đời thường nói rằng: loài kên kên có khả năng nhìn xa cả 100 do tuần (1 do tuần – yojana – khoảng 20 cây số.). Vậy tại sao ngươi đến gần rập lưới, hoặc gần bẫy mà không hay biết?
Ðức Bồ Tát giải đáp rằng:
— Này người thợ săn, bởi vì chúng sinh đến luùc mạng chung, đến thời tai hoạ, khi ấy, dầu đến gần rập lưới hoặc bẫy cũng chẳng hay biết.
Lắng nghe lời giải đáp của Ðức Bồ Tát, người thợ săn vô cùng hoan hỉ, nghĩ rằng: con kên kên chúa này thật đáng kính phục, khi mắc bẫy không hề nghĩ đến mình, mà chỉ khóc than thương cha mẹ già đui mù không ai phụng dưỡng.
Người thợ săn vô cùng cảm động, hai tay nhẹ nhàng cẩn thận tháo gỡ bẫy thả Ðức Bồ Tát ra với tâm bi cứu khổ, bèn nói với Ðức Bồ Tát rằng:
— Này kên kên chúa, tôi xin thả người ra rồi người bay trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già đui mù, cầu chúc người được thân tâm an lạc, đoàn tụ với cha mẹ thân quyến.
Do phước lo phụng dưỡng cha mẹ già, nên Ðức Bồ Tát kên kên chúa được thoát nạn chết, Ngài vô cùng hoan hỉ và cầu chúc người thợ săn rằng:
— Này người thợ săn, cũng như vậy, cầu chúc ngươi được hạnh phúc an lạc cùng với cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của người. Còn tôi, xin từ giả trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già đui mù của tôi.
Con kên kên chúa tha thịt đem về phụng dưỡng cha mẹ như trước.
Tích chim vẹt
Thời quá khứ, miền Ðông Bắc xứ Magadha, có rất nhiều con vẹt sống trong khu rừng lớn gần núi.
Thời ấy, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama sanh làm chim vẹt chúa1 rất xinh đẹp, thường tha đồ ăn từ rừng núi Himavanta đem về phụng dưỡng cha mẹ (Bộ Jàtaka Pakinnakanipàta, chuyện Sàlikedarajàtaka).
Trong làng Sàlindiya, có Bà la môn dòng Kosiya gieo trồng lúa Sàli trên một thửa ruộng lớn cả 100 mẫu, có cho người trông nom canh gác giữ gìn đám lúa ấy.
Chim vẹt chúa cùng với bầy chim rất đông bay đáp xuống ruộng ăn lúa Sàli, mà người trông nom canh gác không thể nào ngăn cấm được; bầy chim vẹt ăn no đủ bay về, riêng có một con chim vẹt chúa không những ăn no đủ rồi, mà còn tha lúa Sàli bay về nữa. Người trông nom canh gác ruộng lúa trình với ông chủ, ông Bà la môn bảo rằng:
— Nếu như vậy, ngươi hãy đặt bẫy rập chờ chim vẹt chúa đáp xuống, bắt sống nó đem về đây cho ta.
Người trông nom canh gác tuân theo lệnh ông chủ, bắt sống được chim vẹt chúa đem trìnhđến ông chủ.
Vừa nhìn thấy con chim vẹt chúa, ông Bà la môn phát sanh tâm thương yêu quý mến vô cùng. Ông đặt Ðức Bồ Tát đậu trên đầu gối rồi bảo rằng:
— Này chim vẹt, nhà ngươi ăn lúa Sàli của ta no nê rồi, còn tha đem về, nhà ngươi có bồ lúa phải không? Hay nhà ngươi muốn gây oan trái với ta?
Nghe câu hỏi, Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa ôn tồn đáp bằng bài kệ rằng:
— Thưa ông Ko-si-ya kính mến! Bồ lúa của tôi nào đâu có! Oan trái với ông tôi không nghĩ. Tôi ở trong khu rừng lớn này Lo trả món nợ cũ đã vay, Cho vay món nợ mới về sau. Chôn cất của quý, dành mang theo. Xin ông thông cảm cho tôi vậy!
Nghe câu giải đáp với ý nghĩa sâu sắc, ông Bà la môn không hiểu, nên hỏi lại Ðức Bồ Tát rằng:
— Ngươi trả món nợ cũ đến cho ai? Và cho ai vay món nợ mới? Chôn cất của quý để dành mang theo bên mình được như thế nào? Nhà ngươi giải thích rõ ràng cho ta hiểu.
Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa giải thích rằng:
— Thưa ông Ko-si-ya kính mến! Cha mẹ tôi già yếu ở tổ, Tôi tha lúa về nuôi cha mẹ, Trả nợ cũ đã vay từ nhỏ. Con tôi còn nhỏ bé thơ dại, Chưa có cánh bay đi kiếm ăn, Tôi tha lúa về nuôi con tôi, Cho vay món nợ mới về già, Con tôi sẽ nuôi dưỡng lại tôi. Những chim khác bệnh hoạn yếu đuối, Có đôi cánh mà bay không được, Tôi tha lúa về nuôi dưỡng chúng, Tạo phước thiện bố thí để dành, Bậc Thiện trí gọi phước thiện ấy, Là kho tàng phước mang theo mình, Xin ông hiểu rõ ý nghĩa vậy!
Lắng nghe lời giải thích, ông Bà la môn có đức tin trong sạch nơi Ðức Bồ Tát và vô cùng hoan hỉ cho phép rằng:
— Kể từ nay về sau, nhà ngươi cùng bà con thân quyến của ngươi được an toàn sanh mạng,được phép tự do ăn lúa Sàli trên toàn đám ruộng của ta.
Ðám ruộng lúa Sàli của ông Bà la môn cả 100 mẫu, Ðức Bồ Tát biết tri túc, chỉ xin phép ăn lúa Sàli trên khoảng 8 mẫu ruộng, phần còn lại thuộc về của ông Bà la môn, sẽ không đụng chạm đến.
Ðức Bồ Tát trước khi từ giả, có lời khuyên ông Bà la môn rằng:
— Này ông Bà la môn, xin ông chớ nên dễ duôi, cố gắng tinh tấn tạo nhiều phước thiện.
Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa tha lúa về nuôi dưỡng cha mẹ, con cái và những con chim già yếu bệnh hoạn.
Ông Bà la môn sai người cắm cọc khoanh vùng khoảng 8 mẫu, bảo người trông nom canh gác rằng:
— Ngươi chớ nên ngăn cấm loài chim ăn lúa Sàli và tha đem về trong vùng lúa này.
Từ đó về sau, bầy chim được phép ăn lúa Sàli, trong phạm vi khoảng 8 mẫu ấy và được phép tha lúa đem về nuôi dưỡng cha mẹ, con cái và những con chim già yếu.
Tích Voi Chúa
Thời quá khứ, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama sanh làm bạch tươïng chúa, có đàn tùy tùng gồm có 84.000 thớt voi. Voi Bồ Tát nuôi dưỡng mẹ già đui mù trong khu rừng núi Himavanta.
Về sau, Bồ Tát bạch tượng chúa từ bỏ đàn voi, dẫn voi mẹ đến chân núi tên Candïorana, để voi mẹ trong động gần hồ sen. Hàng ngày, Bồ Tát bạch tượng đem đồ ăn về phụng dưỡng voi mẹ.
Khi ấy, một người thợ săn dân thành Bàrànasì bị lạc đường trong rừng sâu suốt 7 ngày, không biết đường trở về, đi lạc đến chỗ ở của bạch tượng chúa. Bồ Tát bạch tượng chúa chở y ngồi trên lưng của mình với tâm bi, đem y ra khỏi rừng đến địa phận của loài người, thả y xuống, rồi trở về chỗ ở của mình.
Người thợ săn vô ơn kia đi thẳng đến kinh thành xin vào yết kiến Ðức Vua rồi tâu rằng:
— Tâu bệ hạ, kẻ tiện dân đi săn trong rừng có thaáy một bạch tượng chúa xứng đáng làm phương tiện của hoàng thượng.
Trong triều đình, bạch tượng của Ðức Vua đã qua đời, chưa tìm ra bạch tượng khác, khi nghe người thợ săn tâu, Ðức Vua rất hoan hỉ, truyền lệnh cho người nài voi đi cùng với người thợ săn vào rừng bắt Bồ Tát bạch tượng chúa đem về nhốt trong chuồng voi. Chính Ðức Vua đến ban cho những nắm cỏ ngon lành đến Bồ Tát bạch tượng chúa.
Bồ Tát bạch tượng chúa nghĩ rằng: “Không thấy voi mẹ, ta không chịu ăn”.
Ðức Vua truyền rằng:
— Này bạch tượng chúa, xin dùng cỏ ngon này.
Ðức Bồ Tát không đón nhận bèn tâu rằng:
— Tâu Ðại Vương, tiện thú này có bổn phận nuôi dưỡng voi mẹ già đui mù, voi mẹ của tiện thú nếu không có tiện thú nuôi dưỡng, thì không thể sống được. Tiện thú không có voi mẹ, thì không cần một thứ gì trên đời này cả. Hôm nay đã là ngày thứ 7 voi mẹ của tiện thú không có một món ăn nào, voi mẹ của tiện thú sẽ ra sao?
Lắng nghe bạch tượng chúa tâu, Ðức Vua vô cùng cảm kích trước tấm lòng hiếu thảo của bạch tượng chúa, truyền lệnh rằng:
— Này các ngươi, hãy thả bạch tượng chúa này trở về rừng ngay bây giờ.
Ðức Vua truyền rằng:
— Xin bạch tượng chúa trở về an toàn được sum họp đoàn tụ với voi mẹ già thân yêu và cùng tất cả thân quyến.
Bồ Tát bạch tượng chúa được giải thoát khỏi xiềng xích đôi chân, rồi thuyết pháp tế độ Ðức Vua, dạy Ðức Vua thực hành 10 pháp vương của Ðức Vua, trị vì đất nước bằng thiện pháp để đem lại sự an lành thịnh vượng trong nước cùng thần dân thiên hạ….
Bạch tượng khuyên Ðức Vua rằng:
— Chớ nên dễ duôi, nên cố gắng tinh tấn trong mọi thiện pháp.
Bồ Tát bạch tượng chúa được mọi người cúng dường, đi ra khỏi kinh thành Bàrànasì về gặp lại voi mẹ ngay trong ngày hôm ấy.
Ðức Vua có đức tin trong sạch nơi ân đức của bạch tượng chúa, truyền lệnh làm nhà gần hồ sen để cho bạch tượng chúa và voi mẹ ở, và hàng ngày cho người cung cấp đồ ăn cúng dường đến Bồ Tát bạch tươïng và voi mẹ.
Về sau, khi voi mẹ của Ðức Bồ Tát qua đời, Ðức Vua truyền lệnh làm lễ hoả táng thi thể xong mới hồi cung. Ðức Vua truyền lệnh cho xây cất chỗ ở cho 500 vị đạo sĩ ở triền núi rừng ấy, hàng ngày Ðức Vua hộ độ 4 thứ vật dụng đến chư vị đạo sĩ.
Khi Bồ Tát bạch tượng chúa qua đời, Ðức Vua làm lễ hoả táng xong, cho tạo một tượng bằngđá giống như Bồ Tát bạch tượng chúa làm kỷ niệm, để tỏ lòng biết ơn Ðức Bồ Tát; và để dân chúng toàn cõi Nam thiện bộ châu đến thăm viếng nhớ ơn Ðức Bồ Tát.
Những người con có hiếu nghĩa, biết công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, và biết đền ơn, biết lo phụng dưỡng cha mẹ dầu là loài người hoặc loài thú, do phước thiện ấy, trong kiếp hiện tại, những người con ấy được an lành hạnh phúc; tránh khỏi mọi tai hoạ một cách phi thường, chư bậc Thiện trí đều tán dương ca tụng. Sau khi chết, kiếp vị lai, do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ ấy, cho quả được tái sanh cõi thiện giới, đó là tái sanh làm người cao quý trong cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên cao quý ở cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời ấy.
Ngược lại, người con nào bất hiếu, không biết ơn và không đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, không biết lo phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn ốm đau, trong kiếp hiện tại người con ấy thường gặp điều bất hạnh, đau khổ, thường bị tai hoạ, chư bậc Thiện trí chê trách. Sau khi chết, kiếp vị lai, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh bị sa vào 1 trong 4 cõi ác giới…, đó là cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.
Cho nên, người con phải nên làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, người con ấy không những được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại, mà còn được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài trong kiếp vị lai.