Kết Tập Tam Tạng Pāḷi:
Kết tập Tam tạng lần thứ nhất: Ðể giữ gìn duy trì chánh pháp của Ðức Phật cho được đầy đủ, không để rời rạc, không cho thất lạc, cho nên sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày, Ngài đại Trưởng lão Mahākassapa triệu tập 500 bậc Thánh A-ra-hán toàn những vị chứng đắc Tứ tuệ phân tích [9] , Lục thông [10] … thông thuộc Tam tạng cùng nhau hội họp, do Ngài Ðại Trưởng Lão Mahākassapa chủ trì cuộc lễ kết tập Tam tạng cùng Chú giải bằng tiếng Pāḷi, lần đầu tiên tại động Sattapanni, gần kinh thành Rājagaha xứ Māgadha, thời gian suốt 7 tháng mới đầy đủ bộ Tam tạng: Luật tạng, Kinh tạng, Vi diệu pháp tạng cùng với các bộ đại Chú giải [11] bằng tiếng Pāḷi, mà Ðức Phật đã thuyết giảng suốt 45 năm; kể từ khi trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác tại đại cội Bồ Ðề cho đến lúc tịch diệt Niết Bàn tại khu rừng Kusinārā.
Sau khi chư bậc Thánh A-ra-hán kết tập Tam tạng và Chú giải bằng tiếng Pāḷi xong, quý Ngài phân chia ra từng nhóm, mỗi nhóm có phận sự học thuộc lòng và dạy cho các hàng đệ tử của mình giữ gìn duy trì đầy đủ Tam tạng Pāḷi gồm có 84.000 pháp môn, và các bộ đại Chú giải.
Kỳ kết tập Tam tạng cùng các bộ Chú giải lần thứ nhất bằng cách khẩu truyền (Mukhapātha), bởi vì chư bậc Thánh A-ra-hán đều có khả năng thuộc lòng đầy đủ Tam tạng cùng các bộ Chú giải (chưa ghi chép bằng chữ viết).
Giáo pháp của Ðức Phật được giữ gìn duy trì đúng theo chánh pháp trải qua gần 100 năm, thì có nhóm Tỳ khưu Vajjīputta xứ Vesāli tự đặt ra 10 điều không hợp với pháp luật của Ðức Phật. Ngài Ðại Trưởng Lão Yassa Kālaṇṇakaputta (Mahāyassa) liền đến tận nơi hội hợp chư Tỳ khưu Tăng giải thích để cho họ hiểu rõ, đó là 10 điều không hợp luật pháp của Ðức Phật. Ðó cũng là nguyên nhân khiến Ngài Ðại Trưởng Lão Yassa Kālaṇṇakaputta triệu tập 700 bậc Thánh A-ra-hán có đầy đủ Tứ tuệ phân tích, Lục thông … thông thuộc Tam tạng, do Ngài chủ trì làm lễ Kết tập Tam tạng lần thứ hai tại ngôi chùa Vālikārāma, gần thành Vesāli, khoảng 100 năm, sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tập Tam tạng lần này cũng bằng khẩu truyền suốt thời gian 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam tạng và các bộ Chú giải, hoàn toàn theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam tạng lần thứ nhất.
Giáo pháp của Ðức Phật càng ngày càng phát triển chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni rất đông, có rất nhiều cận sự nam, cận sự nữ có đức tin nơi Tam bảo, cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni rất đầy đủ và sung túc; ngược lại các nhóm tu sĩ ngoại đạo đời sống thiếu thốn; do đó, có số tu sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với Tỳ khưu, về mặt hình thức giống nhau, song về nội tâm vẫn giữ nguyên tà kiến cố hữu của mình.
Vào thời kỳ ấy, có Ðức vua Asoka là đấng minh quân, và là một cận sự nam có đức tin trong sạch hộ trì ngôi Tam bảo. Nhờ Ðức vua Asoka thanh lọc loại bỏ những Tỳ khưu giả có tà kiến ngoại đạo ra khỏi chùa, chỉ còn lại Tỳ khưu thật có chánh kiến trong Phật giáo.
Nhân dịp này, Ngài Ðại Trưởng Lão Moggali-puttatissa đứng ra triệu tập Kết tập Tam tạng lần thứ ba gồm có 1.000 bậc Thánh A-ra-hán chứng đắc Tứ tuệ phân tích, Lục thông … thông thuộc Tam tạng do Ngài chủ trì tại ngôi chùa Asokārāma xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tập Tam tạng này cũng bằng khẩu truyền suốt 9 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam tạng và Chú giải, hoàn toàn giống như bổn chánh của hai kỳ kết tập trước.
Ðức vua Asoka không những hộ độ Phật giáo được phát triển trong nước, mà còn gởi các phái đoàn chư Tăng sang các nước láng giềng để truyền bá giáo pháp của Ðức Phật.
Ðức vua Asoka gởi phái đoàn chư Tăng do Ngài Ðại Ðức Mahinda dẫn đầu sang truyền bá Phật giáo trên đảo quốc Srilankā. Và phái đoàn do Ngài Ðại Trưởng Lão Soṇa và Ngài Ðại Trưởng Lão Uttara sang vùng Suvaṇṇabhūmi: gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thailan, Lào, Campuchia … để truyền bá Phật giáo.
Tại đảo quốc Srilankā, Phật giáo rất thịnh hành và phát triển tốt, từ Ðức vua, cho đến các quan quân, dân chúng đều có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, đã xuất gia trở thành Tỳ khưu, Tỳ khưu ni rất đông.
Một thời đảo quốc Srilankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng lâm vào cảnh thiếu thốn, nên đời sống của Tỳ khưu cũng phải chịu ảnh hưởng, có số Tỳ khưu sức khoẻ yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam tạng Pāḷi và Chú giải thuộc lòng rất vất vả. Khi cuộc phiến loạn đã dẹp xong, chư Ðại Trưởng Lão suy xét thấy rằng: sau này, các hàng hậu sanh trí nhớ và trí tuệ càng ngày càng kém dần; cho nên chư Tỳ khưu học thuộc lòng Tam tạng Pāḷi cùng các Chú giải để giữ gìn duy trì cho được trọn vẹn không phải là việc dễ dàng.
Một hôm, Ðức vua Vaṭṭagāmanī ngự đến chùa Mahāvihāra, nhân lúc ấy, chư Ðại Trưởng Lão thưa với Ðức vua rằng:
– Thưa Ðại Vương, từ xưa đến nay, chư Ðại Ðức Tăng có phận sự học thuộc lòng Tam tạng và Chú giải để giữ gìn duy trì giáo pháp của Ðức Phật. Trong tương lai, đàn hậu tấn là những Ðại Ðức khó mà học thuộc lòng Tam tạng Pāḷi và Chú giải một cách đầy đủ và trọn vẹn được. Như vậy, giáo pháp của Ðức Phật sẽ bị tiêu hoại mau chóng theo thời gian.
Thưa Ðại Vương, muốn giữ gìn duy trì Tam tạng Pāḷi, Chú giải được trọn vẹn đầy đủ. Vậy nên kết tập Tam tạng Pāḷi, Chú giải ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, để lưu lại cho hậu thế.
Ðức vua Vaṭṭagāmanī hoan hỉ chấp thuận.
Kỳ Kết tập Tam tạng lần thứ tư được tổ chức tại động Ālokalena vùng Matulajanapada xứ Srilankā, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Ðức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tập Tam tạng Pāḷi, Chú giải lần này gồm có 1.000 bậc Thánh A-ra-hán chứng đắc Tứ tuệ phân tích, thông thuộc Tam tạng, Chú giải, do Ngài Ðại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì công cuộc kết tập Tam tạng Pāḷi và các bộ Chú giải được ghi chép trên lá buông suốt một năm mới hoàn thành. Sau đó chư bậc Thánh A-ra-hán kết tập Tam tạng bằng khẩu truyền một lần nữa hoàn toàn y theo bổn chánh của ba kỳ kết tập Tam tạng lần trước.
Kỳ kết tập Tam tạng lần thứ tư này là lần đầu tiên được ghi chép bằng chữ viết trên lá buông trọn vẹn bộ Tam tạng và các bộ Chú giải gọi là “Potthakaropana-saṅgīti”, do Ðức vua Vaṭṭagāmanī Abhaya hộ độ.
Phái đoàn chư Tăng do Ngài Ðại Trưởng Lão Soṇa và Ðại Trưởng Lão Uttara sang vùng Suvaṇṇabhūmi:gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thailan, Campuchia, Lào… để truyền bá Phật giáo. Phật giáo trong các nước trong vùng này trải qua bao cuộc thăng trầm tùy theo vận mệnh của mỗi nước.
Ðất nước Myanmar, vào thời đại vua Mindon đóng đô tại kinh thành Mandalay, Ðức vua là người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, nhiệt tâm hộ trì Tam bảo nghĩ rằng: “Phật giáo thường liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, mỗi khi đất nước bị xâm lăng, kẻ thù thường hay đốt kinh sách Phật giáo”. Ðức vua muốn bảo tồn giáo pháp của Ðức Phật, nên Người thỉnh chư Ðại Trưởng Lão tổ chức cuộc lễ kết tập Tam tạng Pāḷi khắc chữ trên những bia đá, để giữ gìn duy trì Tam tạng pháp bảo Pāḷi được lâu dài.
Chư Ðại Trưởng Lão vô cùng hoan hỉ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Ðức vua, tổ chức kỳ Kết tập Tam tạng Pāḷi lần thứ năm tại kinh thành Mandalay xứ Myanmar Phật lịch năm 2404.
Kỳ kết tập Tam tạng Pāḷi lần này tuyển chọn 2.400 vị Ðại Trưởng Lão là những bậc uyên bác Tam tạng, Chú giải, do Ngài Ðại Trưởng Lão Bhaddanta Jāgara làm chủ trì. Công việc khắc Tam tạng Pāḷi trên bia đá bắt đầu Phật lịch 2404 cho đến Phật lịch 2415, trải qua suốt 11 năm ròng rã mới hoàn thành xong trọn vẹn bộ Tam tạng trên 729 tấm bia đá:
– Luật Tạng gồm có 111 tấm. – Kinh Tạng gồm có 410 tấm. – Vi Diệu Pháp Tạng gồm có 208 tấm.
Sau khi khắc bộ Tam tạng Pāḷi bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư Ðại Trưởng Lão tổ chức kết tập Tam tạng bằng khẩu truyền một lần nữa suốt 6 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam tạng y theo bổn chánh của 4 kỳ kết tập Tam tạng lần trước. Gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”.
Kỳ kết tập Tam tạng lần thứ năm này do Ðức vua Mindon xứ Myanmar hộ độ. Lần đầu tiên toàn bộ Tam tạng Pāḷi được khắc trên 729 tấm bia đá đến nay vẫn còn nguyên vẹn tại cố đô Mandalay xứ Myanmar.
Về sau, vị đạo sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc toàn bộ Chú giải trên những tấm bia đá, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn.
Phật giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam tạng Pāḷi, Chú giải Ṭikā … đã in ra thành sách, việc sao đi chép lại, nhiều lần khó tránh khỏi sơ sót. Do đó, các bộ Tam tạng Pāḷi, Chú giải… của mỗi nước có chỗ sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp học Phật giáo không hoàn toàn giống y nguyên theo bổn chánh.
Nước Myanmar thành lập hội “Buddhasāsanamiti” Phật lịch 2497 để lo tổ chức kỳ Kết tập Tam tạng lần thứ sáu tại động nhân tạo Lokasāma (Kaba Aye) thủ đô Yangon, Myanmar, thỉnh tất cả các bộ Tam tạng, Chú giải hiện có trên các nước Phật giáo để làm tài liệu đối chiếu từng chữ, từng câu, của mỗi bổn.
Kỳ kết tập Tam tạng lần thứ sáu này gồm có 2.500 vị Ðại Trưởng Lão thông hiểu Tam tạng, Chú giải, thông thạo ngữ pháp Pāḷi, do Ngài Ðại Trưởng Lão Revata chủ trì chia ra thành nhiều ban đối chiếu, sửa chữa lại cho đúng. Công việc bắt đầu từ ngày rằm tháng tư Phật lịch 2498 cho đến ngày rằm tháng tư Phật lịch 2500 ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong trọn bộ Tam tạng Pāḷi, Aṭṭhakathā, Ṭīkā. Chính phủ Myanmar đứng đầu là thủ tướng Unu tổ chức lễ khánh thành kết tập Tam tạng rất trọng thể, có mời các nguyên thủ của các nước Phật giáo, các phái đoàn các nước Phật giáo đến tham dự, để đánh dấu một nửa tuổi thọ của Phật giáo 2.500 năm.
Bộ Tam tạng Pāḷi, Aṭṭhakathā, Ṭīkā, Anuṭīkā, v.v… lần thứ 6 này xem là mẫu mực cho các nước Phật giáo thuộc hệ phái Theravāda.