Nguyên nhân Đức Bồ Tát đi xuất gia
Những sự kiện xảy ra theo tuần tự thời gian, khiến Đức Bồ Tát quyết định đi xuất gia.
* Lần đầu tiên, vào ngày rằm tháng 6, Đức vua Bồ Tát đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Ngài nhìn thấy một người già, do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài phát sinh động tâm (samvega). Thật vậy, Ngài chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Ngài suy tư: “Chắn chắn ta cũng có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già được”. Nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi du lãm nữa, Ngài truyền bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
* Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Đức vua lại đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, lần này Ngài nhìn thấy một người bệnh, cũng do chư thiên biến hóa. Như lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được”. Tâm trạng u buồn, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
* Lần thứ ba, cũng cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 2, để vơi bớt nỗi buồn, Đức vua lại muốn đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Ngài nhìn thấy một người chết, cũng do chư thiên biến hoá. Như hai lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được”. Nỗi lo sợ phát sinh trong lòng, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung.
Từ đó, Đức Bồ Tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài tự hỏi, có con đường nào giải thoát sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái sinh. Ôi! Sự tái sinh đáng kinh sợ thật!
* Lần thứ tư, 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6, để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Đức vua đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, Ngài nhìn thấy một bậc xuất gia đang tĩnh tọa dưới cội cây, tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài nghĩ đến việc xuất gia. Thật vậy, khi Đức Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia Ngài liền trút bỏ được mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài quyết định xuất gia ngay đêm ấy, để tìm con đường giải thoát khỏi sự tái sinh, là giải thoát khổ già, khổ bệnh, khổ chết… Hôm ấy, Đức Bồ Tát cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên Ngài vẫn tiếp tục đi du lãm vườn thượng uyển.
Khi Đức Bồ Tát hồi cung, ngay trong đêm ấy Ngài nghe tin Hoàng hậu Yasodharā đã hạ sinh Hoàng tử, tình thương con trỗi dậy trong lòng, Ngài than rằng: “Sự ràng buộc lớn!”. Do đó, Hoàng tử được đặt tên là “Rāhula”.Mặc dù vậy, chí nguyện xuất gia của Đức Bồ Tát vẫn không thay đổi; đêm ấy, Ngài đến tìm Channa, quan giữ ngựa thân tín rồi bảo:
– Này Channa, đêm nay ta sẽ rời hoàng cung đi xuất gia, ngươi hãy sửa soạn cho ta con ngựa Kandaka ngay bây giờ, và nhớ không để cho một ai hay biết.
Bỗng nhiên Ngài thoáng nghĩ: “Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng nhi”. Ngài lén vào phòng Hoàng hậu Yasodhara, dưới ánh đèn mờ nhạt, Hoàng hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay trái qua Hoàng nhi, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn rõ mặt, Ngài thầm nghĩ: “Nếu ta đến gần e rằng Hoàng hậu sẽ thức giấc, làm trở ngại việc xuất gia của ta trong đêm nay. Bây giờ, ta chưa nhìn thấy mặt Hoàng nhi, thì chờ sau khi ta chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn”.
Đức Bồ Tát nhẹ nhàng bước ra, lên ngựa Kandaka, còn Channa đi theo sau, vào lúc nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, Ngài đã trốn khỏi hoàng cung đi xuất gia. Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư thiên nâng đỡ, không phát ra tiếng động, nên không một ai hay biết; khi đến cửa thành thì liền có chư thiên mở cửa cho ngựa Kandaka phi nhanh qua.
Đức Bồ Tát đi qua khỏi ba xứ: xứ Sakya, xứ Koliya và xứ Malla khoảng 30 do tuần chỉ trong một đêm. Đến bờ sông Anoma, Ngài ra hiệu cho ngựa Kandaka bay sang bờ bên kia, rồi Ngài nhẹ nhàng xuống ngựa bảo Channa rằng:
– Này Channa, ta sẽ xuất gia tại nơi đây, con hãy mang hết đồ trang phục nầy trở về hoàng cung tâu cho Phụ vương ta biết.
Đức Bồ Tát lấy thanh gươm bén cắt tóc, chừa lại khoảng 2 lóng tay. Tất cả những sợi tóc còn lại tự xoắn vòng xoáy theo khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu và Ngài cạo sạch râu. Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời, Ngài không phải cắt tóc, cạo râu nữa.
Sau khi cắt tóc xong, Đức Bồ Tát cầm nắm tóc trên tay phát nguyện rằng:
– Nếu ta trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho nắm tóc này ở trên hư không, còn nếu ta không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất.
Đức Bồ Tát ném nắm tóc lên hư không. Thật phi thường thay! Nắm tóc bay bỗng lên trên hư không khoảng một do tuần rồi đứng yên một chỗ. Lúc ấy, Đức vua trời Sakka nhìn thấy bèn đem cái hôp bằng ngọc, cung kính đặt nắm tóc của Đức Bồ Tát vào hộp, đem về tôn thờ ở ngôi tháp Culamanī tại cung Tam Thập Tam Thiên.
Khi ấy, vị đại phạm thiên Ghaṭikāra, là bạn thân cũ từ tiền kiếp của Đức Bồ Tát trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, biết Đức Bồ Tát hôm nay xuất gia, nên mang 8 thứ vật dụng của bậc Samôn là tam y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, dây thắt lưng và đồ lọc nước đến dâng cúng Ngài.
Đức Bồ Tát mặc y vàng màu lõi mít, tượng trưng như lá cờ chiến thắng của bậc Thánh Arahán, trở thành bậc xuất gia, lúc Đức Bồ Tát được 29 tuổi.
Đức Bồ Tát thọ giáo pháp hành thiền định
Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp hành thiền định. Trải qua một thời gian tiến hành thiền định không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc được tứ thiền hữu sắc, và chứng đắc đến đệ tam thiền vô sắc gọi là: Vô sở hữu xứ thiền (Akincannāyatanajjhāna) ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài đức của Đức Bồ Tát rằng:
– Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, thì hiền giả cũng chứng đắc được bậc thiền vô sắc ấy. Hiền giả đã chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, thì tôi cũng chứng đắc được bậc thiền vô sắc ấy.
Này hiền giả, từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.
Ngài nghĩ rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc Vô sở hữu xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên cõi phạm thiên vô sắc giới, Vô sở hữu xứ thiền, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi trong tam giới”.
Đức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.
Sau khi từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta, Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đệ tứ thiền vô sắc gọi là: “Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền” (Nevasannānāsannā-yatanajjhāna), là bậc thiền tột đỉnh của thiền vô sắc giới, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc. Vị Đạo sư tán dương ca tụng Ngài rằng:
– Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh nào, hiền giả cũng chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh ấy.
Này hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Đạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.
Ngài suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô sắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời phạm thiên vô sắc giới, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi trong tam giới”.
Ngài xin từ giã Đạo sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.
Đức Bồ Tát hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā)
Sau khi từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Đức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 Tỳ-khưu: Ngài Kondanna là trưởng nhóm cùng các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji, xin theo hộ độ Đức Bồ Tát.
Đức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā), phương pháp nín thở ra-vô bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp tục nín thở ra-vô bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng phát ra toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Ngài chết ngất.
Có số chư thiên tưởng rằng:
“Samôn Gotama đã chết rồi!”
Số khác tưởng rằng:
“Samôn Gotama đang gần chết!”.
Số khác cho rằng:
“Samôn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Samôn Gotama đang hành pháp bậc Thánh Arahán!”.
Ngài tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen… Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm chỉ còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng phải đường xương sống. Trước kia kim thân của Đức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời; đến nay, các tướng tốt chính và các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.
Một hôm Đức Bồ Tát suy xét: “Ta đã hành pháp khổ hạnh đến chỗ cùng tột rồi. Trong quá khứ, chưa từng có Samôn, Bàlamôn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Hiện tại và vị lai cũng sẽ không có Samôn, Bàlamôn nào có thể hành pháp khổ hạnh như ta; thế mà, ta không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác”.
Đức Bồ Tát hồi tưởng lại rằng: “Khi còn nhỏ cùng Phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, Phụ vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta đã ngồi niệm đề mục hơi thở vô – hơi thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền hữu sắc. Vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng nên”.
Đức Bồ Tát xét thấy rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể tiến hành thiền định đề mục niệm hơi thở vô – hơi thở ra được. Vậy điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, cho có sức khỏe rồi ta mới có thể tiến hành thiền định”.
Đức Bồ Tát từ bỏ khổ hạnh, đi khất thực
Đức Bồ Tát đã hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài đã từ bỏ hành pháp khổ hạnh.
Đức Bồ Tát mang bát vào xóm Senā đi khất thực; thọ thực được thời gian không lâu, sức khoẻ của Ngài được hồi phục trở lại. Trong thời kỳ hành pháp khổ hạnh, 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ biến mất. Nay kim thân Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ, có nước da màu vàng sáng ngời như trước.
Vào ngày 14 tháng tư âm lịch, canh chót đêm ấy, Đức Bồ Tát nằm thấy 5 đại mộng(Mahāsupina). Qua 5 đại mộng này, Ngài đoán biết rằng Ngài chắc chắn sẽ chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Ngài đi đến ngồi dưới gốc cây da để chờ đến giờ đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư thiên, theo lời nguyện của nàng.
Nàng Sujātā là con gái của ông phú hộ Mahāsena ở làng Senā gần khu rừng Uruvela, khi nàng trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện rằng:
“Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, giai cấp và sinh được một đứa con trai đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện, thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên”.
Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý; cho nên, hằng năm vào ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư thiên.
Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa tinh khiết của 8 con bò, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy. Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên. Sở dĩ, có những việc lạ thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có Tứ Đại Thiên Vương trông coi lò lửa, vua trời Sakka lấy củi bỏ vào lò, vua trời phạm thiên che dù, tất cả chư thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa.
Nàng Sujātā gọi tớ gái tên Punnā bảo rằng:
– Này Punnā, hôm nay chư thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này!
Con hãy mau đến cội cây da quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến dâng cúng, tạ ơn chư thiên.
Người tớ gái Punnā vâng lời đến gốc cây da để quét dọn, cô nhìn thấy Đức Bồ Tát đang ngồi quay mặt về hướng Đông, từ kim thân của Ngài phát ra hào quang sáng ngời toả khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng: “Sáng hôm nay, vị Thiên thần của chúng ta hiện xuống ngồi đợi thọ nhận cơm sữa cúng dường”, nghĩ vậy nên cô vô cùng hoan hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ biết.
Nàng Sujātā nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, trong lòng cảm thấy vui mừng khôn xiết và bảo rằng:
– Này Punnā, kể từ hôm nay, con trở thành con gái của ta. Nói xong, nàng ban cho những đồ trang sức quý giá, xứng đáng với địa vị đứa con gái của mình.
Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt, thì vừa đầy mâm.
Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.
Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái Punnā đi theo sau đến gốc cây da. Nhìn thấy Đức Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt chính của bậc Đại nhân và tướng tốt phụ, hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng khắp vùng. Thấy vậy làm cho nàng lại càng phát sinh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ; vì nàng tưởng rằng Ngài là một vị Thiên thần hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng.
Nàng Sujātā cung kính đến gần Đức Bồ Tát, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa cùng bình nước, hoa quả, vật thơm…, cung kính dâng lên Ngài, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thiên thần, con thành kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài; con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng được toại nguyện như thế ấy”.
Đức Bồ Tát đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật quý giá ấy.
Đức Bồ Tát thọ nhận cơm sữa bò của nàng Sujātā
Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức Bồ Tát đứng dậy rời gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Neranjarā, nơi mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá khứ, trước khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supatitthita. Ngài đặt mâm ở bến Supatitthita, rồi xuống dòng sông Neranjarā tắm. Khi tắm xong, Ngài mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán; đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày), Đức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết Bàn).
Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát nguyện rằng:
– Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước.
Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Đức Phật quá khứ là Đức Phật Kakusandha, Đức PhậtKonāgamanavàĐức PhậtKassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng:
“Hôm qua một Đức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.
Trưa hôm ấy, Đức Bồ Tát nghỉ trong một khu rừng Sāla, bên bờ sông Neranjarā, những cây Sāla tự nhiên đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng. Chiều hôm ấy, Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư thiên trang hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng chư thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Đức Bồ Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức Bồ Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.
Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng:
“Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.Ngài ngự đi sang hướng khác.
Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Đông, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Đông được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng:
“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác.
Khi đứng hướng Bắc của cội cây, Ngài nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ rằng:
“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác.
Ngôi Bồ đoàn toàn thắng Ác MaThiên
Sau cùng, đứng hướng Đông của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Tây, thật phi thường thay! Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng, Ngài nghĩ rằng:
“Chính đây là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác”.
Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội Assattha. Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên trở thành ngôi Bồ đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một Bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước báu ba-la-mật tròn đủ của Đức Bồ Tát sắp trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi Bồ đoàn quý báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng:
– Dầu cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dầu sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này.
Lúc ấy, từ cung Tha Hoá Tự Tại Thiên, Ác Ma Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi Girimekhala cầm đầu đoàn thiên ma binh, thiên ma tướng rầm rộ hiện xuống vây quanh cội Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành ngôi Bồ đoàn của Đức Bồ Tát. Mới đây, chư thiên, phạm thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức Bồ Tát, khi thoáng nhìn thấy Ác Ma Thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống; tất cả chư thiên, phạm thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức Bồ Tát đang điềm nhiên, ngự trên ngôi Bồ đoàn.
Ác Ma Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Đức Bồ Tát, để chiếm đoạt ngôi Bồ đoàn, với mục đích ngăn cản không cho Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do oai lực 30 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức Bồ Tát sắp chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại được Ngài.
Quả thật như thế, do oai lực pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát, các loại vũ khí và phép thuật của Ác Ma Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Ngài.
Ngồi trên lưng voi Girimekhala, Ác Ma Thiên vô cùng căm uất chỉ tay về Đức Bồ Tát nói như ra lệnh:
– Này Samôn Gotama, nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi Bồ đoàn ấy, vì ngôi Bồ đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!
Đức Bồ Tát từ tốn đáp lại:
– Này Ác Ma Thiên, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước thiện của 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Do đó, ngôi Bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của ngươi.
Khi ấy, chỉ một mình Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức Bồ Tát cả, nên Ác Ma Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức Bồ Tát rằng:
– Thưa Samôn Gotama, Ngài nói rằng: “Ngôi Bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài. Vậy ai làm chứng cho Ngài!”
Nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, phạm thiên nào cả, Đức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng:
“Trong những tiền kiếp, Như Lai đã từng tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh nào đứng ra làm chứng cho Như Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như Lai được không?”.
Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức Bồ Tát vừa chấm dứt. Lập tức, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên; còn đám ma binh thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng chạy tán loạn theo chủ soái để thoát thân.
Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn quý báu dưới cội cây Assattha đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khi ấy, mười ngàn thế giới, chư thiên cõi trời dục giới, phạm thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thủy cung… toàn thể chư thiên, phạm thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực ba-la-mật của Đức Bồ Tát rằng:
Đức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi! Ác Ma Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
Do đó, ngôi Bồ đoàn quý báu này gọi là “Aparājitapallaṅka” nghĩa là ngôi Bồ đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác Ma Thiên.
Chư thiên, phạm thiên đem những đoá hoa trời xinh đẹp, những hương thơm đến cúng dường, tán dương ca tụng ba-la-mật của Đức Bồ Tát.
Đức Bồ Tát chứng đắc Tam Minh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác
Sau khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài tiến hành thiền định (samathabhāvanā) với đề mục niệm hơi thở vô – hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc như sau:
– Đệ nhất thiền hữu sắc:Có 5 chi thiền (hướng tâm, quan sát, hỷ, lạc, định), do chế ngự được 5 pháp chướng ngại (tham dục, sân hận, buồn chán-buồn ngủ, phóng tâm-hối hận, hoài nghi).
– Đệ nhị thiền hữu sắc:Có 3 chi thiền (hỷ, lạc, định), do chế ngự được 2 chi thiền (hướng tâm, quan sát).
– Đệ tam thiền hữu sắc:Có 2 chi thiền (lạc, định), dochế ngự được 1 chi thiền (hỷ).
– Đệ tứ thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (xả, định), do chế ngự được 1 chi thiền (lạc, thay bằng chi thiền xả).
Đó là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng đắc Tam Minh.
TAM MINH (TEVIJJA)
1- Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatināna)
Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc túc mạng minh: Trí tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ 1 kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp… cho đến vô lượng kiếp không giới hạn (đối với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì Túc mạng minh có giới hạn).
Túc mạng minh là trí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
Túc mạng minh là minh thứ nhất mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).
2- Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunāna)
Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên nhãn minh: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như mắt của chư thiên, phạm thiên.
Thiên nhãn minh có 2 loại:
– Tử sanh minh : Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh sau khi chết, do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh giới nào, thọ khổ, thọ lạc như thế nào…
– Vị lai kiến minh : Trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.
Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác…
Thiên nhãn minh là minh thứ nhì mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).
3- Lậu tận minh (Āsavakkhayanāna)
Đức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng, để tiến hành thiền tuệ, quán xét Thập Nhị Duyên Sanh (Paticcasamuppāda) là đối tượng thiền tuệ của chư Bồ Tát. Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận như sau:
Do vô minh làm duyên, nên hành sanh. (Avijjāpaccayā saṅkhārā)
Do hành làm duyên, nên thức sanh. (Saṅkhārapaccayā vinnānam)
Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh. (Vinnānapaccayā nāmarūpam)
Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh. (Nāmarūpapaccayā salāyatanam)
Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh. (Salāyatanapaccayā phasso)
Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh. (Phassapaccayā vedanā)
Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh. (Vedanāpaccayā tanhā)
Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh. (Tanhāpaccayā upādānam)
Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh. (Upādānapaccayā bhavo)
Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh. (Bhavapaccayā jāti)
Do tái sinh làm duyên, nên lão tử… sanh. (Jātipaccayā jarāmaranam…)
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sanh, để trí tuệ thiền tuệ thấy ro, biết rõ “sự sinh” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Khổ Thánh Đếvà Nhân sanh Khổ Thánh Đếhay Tập Thánh Đế.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:
Do diệt tận vô minh, nên diệt hành. (Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)
Do diệt hành, nên diệt thức. (Saṅkhāranirodhā vinnananirodho)
Do diệt thức, nên diệt danh sắc. (Vinnānanirodhā nāmarūpanirodho)
Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập. (Nāmarūpanirodhā salāyatananirodho)
Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc. (Salāyatananirodhā phassanirodho)
Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ. (Phassanirodhā vedanānirodho)
Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái. (Vedanānirodhā tanhānirodho)
Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ.(Tanhānirodhā upādānanirodho)
Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu. (Upādānanirodhā bhavanirodho)
Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh. (Bhavanirodhā jātinirodho)
Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử… (Jātinirodhā jarāmarana… nirodho)
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự diệt” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý: Diệt Khổ Thánh Đếvà Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế hay Đạo Thánh Đế.
Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh – Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều thuận – chiều nghịch, chiều sanh – chiều diệt, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh – sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava) bằng 4 Thánh Đạo Tuệ tuần tự như sau:
– Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tà kiến trầm luân (ditthāsava),đồng thời các tà kiến khác.
– Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava)trong ngũ trần loại thô (còn loại vi tế chưa diệt được), đồng thời các tâm tham loại thô khác.
– Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava)trong ngũ trần loại vi tế không còn dư sót, đồng thời các tâm tham loại vi tế khác.
– Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2 pháp là kiếp trầm luân (bhavāsava)và vô minh trầm luân (avijjāsava),đồng thời diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác pháp không còn dư sót. Đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tiền khiên tật (vāsanā)tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ.
Như vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng đầu tiên trên thế gian. Do đó, Đức Thế Tôn có danh hiệu là “Sammāsambuddha: Đức Phật Chánh Đẳng Giác”.
Lậu tận minh là minh thứ 3 mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng trong toàn cõi thế giới chúng sinh, tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha: cây Bồ đề, đối với Đức Phật Gotama của chúng ta (đưới cội cây nào mỗi Đức Bồ-tát chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, cây ấy đều được gọi là Boddhirukkha. Mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ Đề khác nhau).
Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, phạm thiên vô cùng vui mừng hoan hỷ thốt lên lời:
– Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!)
– Buddho uppanno! (Đức Phật xuất hiện trên thế gian rồi!).
– Dhammo uppanno! (Đức Pháp xuất hiện trên thế gian rồi!)
– Samgho uppanno! (Đức Tăng cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)
Tiếng tung hô vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh.
Điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là:
– Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường đến Đức Phật.
– Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt.
– Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sanh ra không thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật trên đời.
– Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh.
– Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sanh ra không đi lại được, thì nay có thể đi lại dễ dàng.
– Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh với 3 thế giới, dành cho những chúng sinh có tà kiến cố định (niyatamicchāditthi) hoàn toàn không tin nghiệp – quả. Ở địa ngục rất tối tăm đó, dầu ánh sáng của 7 mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận nơi; nhưng ánh sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế giới, chiếu sáng đến tận địa ngục Lokantarika. Cho nên, những chúng sinh ở nơi đó có thể nhìn thấy lẫn nhau.
Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm thiên đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến Đức Phật và tán dương ca tụng Đức Phật bằng hàng ngàn bài kệ.
Phật Ngôn đầu tiên của Đức Phật
Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng 2 bài kệ rằng:
153- “Anekajātisamsāram Sandhāvissam anibbisam Gahakāram gavesanto Dukkhājāti punappunam. 154- Gahakāraka! Dittho’si Puna geham na kāhasi Sabbā te phāsukā bhaggā Gahakūtam visaṅkhatam Visaṅkhāram gatam cittam Tanhānam khayamajjhagā” (Pháp Cú số 153, 154) 153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân” Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp, Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp Tái sinh mãi trong tam giới là khổ, 154- Này “tham ái”, người thợ xây nhà “thân”! Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi! Tất cả sườn nhà, “phiền não” của ngươi, Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt, Nay ngươi không còn xây nhà Như Lai Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi “tham ái” Như Lai đã chứng đắc Arahán.
(Phiền não: có tất cả 1500 loại; Tham ái: có tất cả 108 loại.)
Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật (paṭhamabuddhavacana).
ĐỨC PHẬT AN HƯỞNG QUẢ VỊ GIẢI THOÁT NIẾT-BÀN
Sau khi Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng đầu tiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh, nên Ngài có danh hiệu: “Đức Phật Chánh Đẳng Giác”, độc nhất vô nhị. Đức Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ, gồm có 49 ngày như sau:
1- Tuần lễ thứ nhất: Đức Thế Tôn ngự tại Bồ đoàn quý báu, tại cội Bồ đề, ban ngày nhập Arahán Thánh Quả, ban đêm quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sanh; quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt. Và tiếp theo 6 ngày sau, Đức Thế Tôn nhập Arahán Thánh Quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn, suốt thời gian kể từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, gọi là tuần lễ “Pallaṅkasattāha”.
2- Tuần lễ thứ nhì: Đức Thế Tôn rời khỏi Bồ đoàn quý báu, ngự về phía Đông Bắc, cách cội Bồ đề 14 sải tay, Ngài đứng nhìn về Bồ đoàn quý báu, nơi mà Ngài đã toàn thắng 5 loại Ma(Māra), đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Đức Thế Tôn đứng nhìn Bồ đoàn quý báu không nháy mắt, suốt 7 ngày đêm, kể từ 23 tháng 4 đến ngày 29 tháng 4, gọi là tuần lễ “Animisasattāha”.
3- Tuần lễ thứ ba: Đức Thế Tôn đi kinh hành trên đoạn đường dài 60 hắc tay, được làm bằng 7 loại châu báu, do chư thiên hóa ra để cúng dường Ngài. Đoạn đường này ở phía Bắc gần cội Bồ đề theo chiều Đông Tây. Đức Thế Tôn hóa phép thần thông Yamakapaṭihāriya thành 2 dòng nước và lửa song song phát ra từ nơi kim thân của Ngài, rồi Ngài ngự đi kinh hành, quán xét về chánh pháp, suốt thời gian kể từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, gọi là tuần lễ “Caṅkamasattāha”.
4- Tuần lễ thứ tư:Đức Thế Tôn ngự tại lâu đài bằng vàng, ở phía Tây Bắc của cội Bồ đề do chư thiên hóa ra để cúng dường Ngài. Ở đây, Ngài quán xét về Tạng Vi Diệu Pháp(Abhidhammapitaka) gồm có 7 bộ: Bộ Dhammasaṅganī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhātukathā, bộPuggalapannatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Patthāna. Suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5, gọi là tuần lễ“Ratanagharasattāha”.
5- Tuần lễ thứ năm: Đức Thế Tôn ngự đến cội da ở phía Đông, cách cội Bồ đề 32 sải tay, khi thì Ngài quán xét chánh pháp, khi thì Ngài nhập Arahán Thánh Quả.
Khi ấy, có 3 cô thiên nữ: Taṇhā, AratīvàRāgā là con gái của Ác Ma Thiên, từ cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên hiện xuống, để quyến rũ Đức Phật, với lời nói lẳng lơ và bằng điệu bộ gợi tình. Đức Thế Tôn không quan tâm đến lời nói và điệu bộ của ba nàng, Ngài vẫn an nhiên tự tại nhập Arahán Thánh Quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn.
Ba nàng đã dùng hết khả năng của mình, mà không thể cám dỗ được Đức Thế Tôn, đành phải bất lực, vì Đức Thế Tôn là bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, phiền não, nên không một ai trong tam giới này có thể làm cho tâm Ngài xao động.
Ba cô thiên nữ không quyến rũ được Đức Thế Tôn, nên hồi tâm tán dương ca tụng Ngài, rồi từ giã trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Đức Thế Tôn ngự tại cội da này nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ajapālasattāha”.
6- Tuần lễ thứ sáu: Đức Thế Tôn ngự đến cội me gần hồ Mucalinda, cách xa cội Bồ đề 51 sải tay, ở về phía Đông Nam, Ngài ngồi nhập Arahán Thánh Quả.
Khi ấy, trời mưa lớn, rồng chúa Mucalinda hiện ra dùng thân mình cuộn thành vòng tròn, chồng lên 7 lớp để bao bọc xung quanh kim thân Đức Phật, và phồng mang che trên đầu Ngài, để mưa không làm ướt và lạnh. Rồng chúa tỏ lòng thành kính cúng dường Đức Phật.
Đức Thế Tôn nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 27 tháng 5, gọi là tuần lễ “Mucalindasattāha”.
7- Tuần lễ thứ bảy: Đức Thế Tôn ngự đến cội cây gọi là Rājāyatana cách xa cội Bồ đề 4 sải tay, ở về phía Nam . Ngài nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, gọi là tuần lễ “Rājāyatanasattāha”.
Như vậy, Đức Thế Tôn đã an hưởng pháp vị an lạc giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ, gồm 49 ngày xung quanh cội Bồ đề (hiện nay, taih Buddhagaya xứ Ấn Độ, quanh Đại cội Bồ-đề có đánh dấu kỷ niệm 7 nơi mà Đức Phật đã an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn).
Đức Phật suy tư về pháp Siêu Tam Giới
Đức Thế Tôn suy xét về 9 pháp Siêu tam giới (Lokuttaradhamma) mà Ngài đã chứng đắc:
Tứ Thánh Đế là pháp vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, khó chứng ngộ. 4 Thánh Đạo là pháp diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, phiền não, ác pháp. 4 Thánh Quả là pháp làm vắng lặng mọi tham ái, mọi phiền não, ác pháp. Niết Bàn là pháp giải thoát mọi cảnh khổ.
Đólà pháp mà chỉ có bậc thiện trí, xa lánh ngũ dục, tiến hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Còn chúng sinh đang bị dính mắc trong ngũ dục, bị say mê trong ngũ dục, bị đắm chìm trong ngũ dục, làm tôi tớ của 108 loại tham ái vàlàm nô lệ 1.500 loại phiền não, thì khó mà chứng ngộ được chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Đức Phật nghĩ rằng: “Nếu Như Lai thuyết pháp mà chúng sinh không thấu hiểu chánh pháp, không chứng đắc chánh pháp cao thượng, thì chỉ làm cho Như Lai vất vả, mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi!”.
Do vậy, lúc này Đức Phật chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Theo lệ thường, Chư Phật thuyết pháp cần phải có đầy đủ 2 điều kiện:
– Chủ thể: Đức Phật có tâm đại bi (mahākarunā) muốn tế độ chúng sinh giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, điều kiện này đã sẵn có nơi Ngài.
– Khách thể: Phải có Đại Phạm Thiên thỉnh cầu thuyết pháp tế độ chúng sinh, điều kiện này để làm cho phát sinh đức tin nơi Đức Phật.
Vì rằng, các Đạo sĩ, tu sĩ, Samôn, Bàlamôn, Vua chúa, dân chúng, kể cả chư thiên, phạm thiên, đều tôn kính Đại Phạm Thiên. Nay Đại Phạm Thiên tôn kính Đức Phật, thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh, thì ắt hẳn phần đông chúng sinh nhân loại, chư thiên, phạm thiên,… cũng tôn kính Ngài. Từ sự tôn kính ấy, mới có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Khi có đức tin nơi Tam Bảo, Đức Phật thuyết pháp thì tất cả chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên… mới lắng nghe chánh pháp và thực hành theo chánh pháp của Ngài.
Đại Phạm Thiên thỉnh Đức Phật thuyết pháp
Đại Phạm Thiên Sahampati biết Đức Phật đang còn do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh, Ngài bèn tuyên bố cho toàn cõi phạm thiên, chư thiên khắp 10 ngàn thế giới hay biết rằng:
Nassati vata Bho loko! Vinassati vata Bho loko!
Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ hủy hoại! Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ tiêu diệt!
Bởi vì, Đức Phật đang do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh. Cho nên, Đại Phạm Thiên Sahampati cùng chư thiên, phạm thiên khắp 10 ngàn thế giới hiện xuống, cung kính Đức Thế Tôn, đồng thành kính cung thỉnh:
Desetu Bhante Bhagavā dhammam Desetu Sugato dhammam. – Kính bạch Đức Thế Tôn, Chúng con hết lòng thành kính, xin thỉnh Đức Thế Tôn mở tâm đại bi thuyết pháp tế độ chúng sinh. Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Thiện Ngôn, Chúng con hết lòng thành kính, xin thỉnh Ngài mở tâm đại bi thuyết pháp tế độ chúng sinh. Có số chúng sinh nào phiền não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn. Nếu số chúng sinh ấy, không có được cơ hội lắng nghe chánh pháp của Đức Thế Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao biết dường nào!
Nghe qua lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, với tâm đại bi, Đức Thế Tôn quán xét bằng Phật nhãn (Buddhacakkhu) thấy rõ có số chúng sinh có phiền não nhẹ, có số chúng sinh có phiền não nặng, có số chúng sinh có 5 pháp chủ (tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ) đủ năng lực, có số chúng sinh có 5 pháp chủ ít năng lực, có số chúng sinh dễ dạy, có số chúng sinh khó dạy…
Ví như có 4 đóa hoa sen:
– Có đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chỉ chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời liền nở ngay ngày hôm đó.
– Có đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau.
– Có đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian 3 hoặc 4 hôm nữa mới nở được.
– Có đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non ấy sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá….
Bốn loại hoa sen này được so sánh như 4 hạng người ở trong đời:
– Ugghāṭitannuù: Hạng người có trí tuệ bậc thượng, bén nhạy. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp, chưa cần khai triển, hay trong một bài kệ có 4 câu, chỉ được nghe 2 câu đầu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn ngay tức khắc.
– Vipañcitannū: Hạng người có trí tuệ bậc trung. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp và khai triển, hay được nghe một bài kệ đầy đủ 4 câu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
– Neyya:Hạng người có trí tuệ bậc thường. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp và khai triển xong, còn cần phải có thời gian thân cận gần gũi với bậc Thánh Nhân, bậc thiện trí hướng dẫn chỉ dạy thêm, bậc ấy mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, trong kiếp hiện tại này.
– Padaparama: Hạng người có trí tuệ kém. Dù được nghe nhiều, học nhiều đi nữa hoặc dù có thân cận với bậc thiện trí, họ cũng chưa có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả ngay trong kiếp hiện tại này. Nhưng đây là một cơ hội tốt, một dịp may, để bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn trong kiếp vị lai.
Đức Phật quán xét tất cả chúng sinh bằng Phật nhãn thấy rõ có 4 hạng người như vậy; cho nên, sự thuyết pháp của Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho 3 hạng người trước có thể chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn ngay trong kiếp hiện tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama) ở kiếp vị lai. Do đó, Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, Ngài sẽ thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Đại Phạm Thiên Sahampati, trước đây chưa có đủ điều kiện, nên Như Lai chưa chịu thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Này Đại Phạm Thiên Sahampati, bây giờ, Như Lai nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Như Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành, để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Vị Đại Phạm Thiên Sahampati cùng toàn thể chư phạm thiên, chư thiên vô cùng hoan hỷ, khi biết Đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh cầu của họ. Toàn thể chư phạm thiên, chư thiên thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời.
Trong đời này, chỉ có Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót là không cần lắng nghe chánh pháp từ một vị Thầy nào, mà tự mình có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng, bởi vì chư Bồ Tát này có nhiều năng lực pháp hạnh ba-la-mật.
Ngoài Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót ra, còn tất cả các Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác bậc nào, cũng cần phải lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đó là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh Arahán tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi bậc Thánh Nhân.
Thật vậy, trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, Ngài Đại đức Sāriputta là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác xuất sắc nhất về trí tuệ, trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, vậy mà tự Ngài cũng không thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, cho đến khi Ngài lắng nghe Ngài Đại đức Assaji thuyết dạy một bài kệ gồm 4 câu, vừa nghe 2 câu đầu, Ngài liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
CHUYỂN PHÁP LUÂN
Khi suy xét nên thuyết pháp tế độ cho ai đầu tiên, Đức Phật liền nghĩ đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Lúc ấy chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch được 7 ngày qua.
Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch, do năng lực đệ tam thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Vô sở hữu xứ thiên thuộc vô sắc giới.
Ngài nghĩ: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!” (Sự bất lợi ở đây có nghĩa: chúng sinh ở cõi trời Vô Sắc, không có sắc uẩn nên không có tai để nghe được chánh pháp, mất đi cơ hội hiếm có để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết-bàn).
Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Udaka Rāmaputta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Lúc ấy, chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, vị Đạo sư Udaka Rāmaputta vừa mới viên tịch chiều hôm qua.
Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã viên tịch, do năng lực đệ tứ thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên thuộc vô sắc giới.
Đức Phật nghĩ rằng: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”.
Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến nhóm 5 Tỳ-khưu đã từng phụng sự, hộ độ cho Ngài trong thời gian còn là Bồ Tát hành khổ hạnh.
Đức Phật nghĩ: “Vậy, đầu tiên Như Lai nên thuyết pháp tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu này”.
Khi ấy, nhóm 5 Tỳ-khưu đang ở tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Bārāṇasī.
Vậy, từ khu rừng Uruvela, Đức Phật ngự đến kinh thành Bārāṇasī để thuyết pháp độ nhóm 5 Tỳ-khưu: Ngài Kondanna trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.
Đức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Thế Tôn ngự đến khu rừng phóng sanh nai gọi là Isipatana, nhằm vào ngày rằm tháng 6, sau khi trở thành bậc Chánh Đẳng Giác tròn đúng hai tháng. Nhóm 5 Tỳ-khưu nhìn thấy Đức Phật từ xa đi đến, họ nghĩ lầm rằng: “Samôn Gotama đã từ bỏ sự tinh tấn hành pháp khổ hạnh, trở lại đời sống sung túc”.
Vì nghĩ như vậy, nhóm 5 Tỳ-khưu không còn đức tin và kính trọng Đức Phật như trước, họ đồng ý thỏa thuận với nhau rằng: “Chúng ta không đứng dậy đón rước, không tiếp nhận y và bát, không đảnh lễ, chỉ nên sắp đặt chỗ để cho Samôn Gotama ngồi mà thôi”. Nhưng khi Đức Phật đến gần, do oai lực và tâm đại bi của Ngài, nhóm 5 Tỳ-khưu không còn nhớ lời giao ước, mà mỗi người đều tự động đứng dậy cung kính đón rước: Vị này nhận y bát, vị kia lấy nước rửa chân, vị thì sắp đặt trải chỗ ngồi cao quí, thỉnh Ngài đến ngự… Nhưng cách xưng hô của họ đối với Đức Phật vẫn bằng cách gọi: “Āvuso” không hợp lẽ đạo, thiếu cung kính đối với Đức Thế Tôn.
Thấy vậy, Đức Phật dạy rằng:
– Này chư Tỳ-khưu, các con không nên gọi Như Lai bằng tiếng “Āvuso”. Như Lai là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Như Lai sẽ thuyết giảng chánh pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Các con hãy lắng nghe rồi thực hành theo, các con cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn y theo Như Lai đã chứng ngộ”.
Nhóm 5 Tỳ-khưu vẫn chưa tin theo lời dạy của Đức Phật, vì nghĩ rằng: “Trước đây Samôn Gotama hành pháp khổ hạnh đến như thế, mà không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác; nay trở lại đời sống sung túc như vậy, lại có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác được hay sao?”.
Đức Thế Tôn thấu hiểu rõ sự hoài nghi của nhóm 5 Tỳ-khưu, nên Ngài đã giảng giải rõ ràng, phá tan được sự hoài nghi của họ. Cuối cùng, nhóm 5 Tỳ-khưu cảm phục Đức Phật và phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài.
Khi ấy mặt trời sắp lặn ở hướng Tây, mặt trăng ló dạng ở hướng Đông, Đức Thế Tôn lần đầu tiên thuyết pháp với bài kinh “Dhammacakkappavattanasutta”(kinh Chuyển Pháp Luân.)
Nội dung bài kinh Chuyển Pháp Luân
Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, để tế độ 5 nhóm Tỳ-khưu là Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji.
Đức Phật dạy rằng:
– Bậc xuất gia không nên hành hai pháp cực đoan thuộc hai biên kiến.
Một là: Hưởng khoái lạc trong ngũ dục do tâm tham ái hợp với tà kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh.
Hai là: Tự ép xác, hành khổ mình do tâm sân và có đoạn kiến, thuộc pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh.
Không thiên về hai biên kiến ấy, Đức Phật đã hành theo pháp hành Trung Đạo(Majjhimappaṭipadā) đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là:
1- Chánh kiến: Trí tuệ thiền tuệ chân chánh thấy rõ, biết rõ chân lý Tứ Thánh Đế
– Khổ Thánh Đế. – Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Tập Thánh Đế). – Diệt Khổ Thánh Đế (Diệt Thánh Đế). – Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế (Đạo Thánh Đế).
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
2- Chánh tư duy: Tư duy chân chánh
– Tư duy thoát ra khỏi ngũ dục (xuất gia). – Tư duy không làm khổ mình, khổ người (hợp với tâm từ). – Tư duy không làm hại mình, hại người (hợp với tâm bi).
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
3- Chánh ngữ: Lời nói chân chánh
– Tránh xa lời nói dối. – Tránh xa lời nói chia rẽ. – Tránh xa lời nói thô tục. – Tránh xa lời nói vô ích.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
4- Chánh nghiệp: Hành nghề chân chánh
– Tránh xa sự sát sanh. – Tránh xa sự trộm cắp. – Tránh xa sự tà dâm.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
5- Chánh mạng: Nuôi mạng chân chánh
– Tránh xa thân hành ác, khẩu nói ác liên quan đến việc nuôi mạng.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
6- Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chánh
– Tinh tấn diệt ác pháp đã sinh. – Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh. – Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh. – Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã sinh.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
7- Chánh niệm: Niệm chân chánh
– Niệm thân: Thân là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác. – Niệm thọ: Thọ là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác. – Niệm tâm: Tâm là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác. – Niệm pháp: Pháp là đối tượng của chánh niệm, tỉnh giác.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
8- Chánh định: Định chân chánh
– Định trong đệ nhất thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng. – Định trong đệ nhị thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng. – Định trong đệ tam thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng. – Định trong đệ tứ thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng. – Định trong đệ ngũ thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng.
Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Pháp hành Trung Đạođó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh này chỉ đồng sinh với 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm, chắc chắn có Niết Bàn là đối tượng.
Bằng những pháp hành Trung Đạo này, Đức Phật đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân:
– Trí tuệ học Tứ Thánh Đế. – Trí tuệ hành Tứ Thánh Đế. – Trí tuệ thành Tứ Thánh Đế.
Thành 12 loại trí tuệ đã phát sinh hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh và đã chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh, cho nên Ngài có danh hiệu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị.
Đức Phật truyền dạy rằng: “Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh, nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy”.
Ngài Koṇḍanna chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu.
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ-khưu vô cùng hoan hỷ thực hành theo lời giáo huấn của Ngài. Trong nhóm 5 Tỳ-khưu ấy, Ngài Koṇḍanna đã phát sinh Pháp Nhãn chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.
Khi ấy, Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu; Đức Phật đã cho phép Ngài Koṇḍanna thọ Tỳ-khưu theo cách Ehi bhikkhūpasampadā. Thọ Tỳ-khưu bằng cách Đức Phật gọi Ehi bhikkhu như sau:
“Ehi bhikkhū!” ti Bhavagā avoca. Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya…”.
Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:
“Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”.
Tam Bảo trọn vẹn xuất hiện trên thế gian
Ngay khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt câu, Ngài Koṇḍanna liền trở thành vị Tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ-khưu, phát sinh do phước thiện, cũng đồng thời Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo hoàn toàn đầy đủ trọn vẹn trên thế gian này, vào đúng ngày rằm tháng 6 (âm lịch). Bốn vị Tỳ-khưu còn lại cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu theo tuần tự thời gian như sau:
Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập lưu và được phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu bằng cách Ehi bhikkhu.
Trong Phật giáo có 4 loại bậc Thánh Nhân:
Bậc Thánh Nhập Lưu. Bậc Thánh Nhất Lai. Bậc Thánh Bất Lai. Bậc Thánh Arahán.
Nhóm 5 Tỳ-khưu đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, chỉ mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não là tà kiến và hoài nghi. Bậc Thánh Nhập Lưu chưa có khả năng diệt đoạn tuyệt 8 loại phiền não còn lại và các tham ái, các ác pháp, nên chưa có thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới được. Cho nên, Đức Phật giảng bài Kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Vô Ngã Tướng để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu tiếp tục chứng đắc thành bậc Thánh Arahán là bậc Thánh Nhân thứ tư cao thượng trong Phật giáo.
Kinh Anattalakkhaṇasutta
Theo tuần tự thời gian đến ngày 20 tháng 6 (âm lịch), Đức Phật thuyết giảng bài kinh Anattalakkhaṇasutta: “Kinh Vô Ngã Tướng”, để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu trở thành bậc Thánh Arahán.
Nội dung bài kinh, Đức Phật thuyết giảng về ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn đều là pháp vô ngã, không phải ta, không phải của ta.
Mỗi uẩn đều có sự sinh, sự diệt, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã.
Mỗi uẩn có 11 tính chất: quá khứ hoặc vị lai, hoặc hiện tại; bên trong hoặc bên ngoài; thô hoặc vi tế; thấp hèn hoặc cao quý; gần hoặc xa thực tánh của tất cả mỗi uẩn ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của ta.
Nhóm 5 Tỳ-khưu có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn đúng theo thực tánh của ngũ uẩn như vậy, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ nhì, tiếp tục chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ ba, cuối cùng là chứng đắc Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ tư, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót lại, trở thành bậc Thánh Arahán; trí tuệ quán xét thấy rõ, biết rõ Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả đã chứng đắc, Niết Bàn đã chứng ngộ, mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp đã diệt đoạn tuyệt không còn dư sót. Các Ngài có trí tuệ thấy rõ, biết rõ mọi phận sự Tứ Thánh Đế đã hoàn thành; phạm hạnh cao thượng đã hành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào khác nữa.
Nhóm 5 Tỳ-khưu trở thành bậc Thánh Arahán vào ngày 20 tháng 6 là những ngày đầu hạ thứ nhất của Đức Phật.
Như vậy, ngoài Đức Phật ra, còn có thêm 5 vị Thánh Arahán xuất hiện trên thế gian.
Những ngày quan trọng trong Phật giáo
Trong Phật giáo, có những ngày lễ quan trọng đáng ghi nhớ:
Ngày rằm tháng tư là ngày Đức Phật xuất hiện trên thế gian. (ngày rằm tháng tư cũng là ngày Đức Bồ Tát Siddhattha đản sinh, và 80 năm sau, cũng là ngày Đức Phật tịch diệt Niết Bàn)
* Ngày rằm tháng sáu là ngày Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên, để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu, đồng thời cũng là ngày Tam Bảo: “Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo” đầy đủ hoàn toàn xuất hiện trên thế gian.
* Ngày rằm tháng giêng là ngày Đại hội chư Thánh Arahán gồm có 1.250 vị.