Sinh Làm Người Là Điều Khó
Trong bài kinh Chiggaḷasutta 1 Đức Phật thuyết dạy bằng ví dụ rằng:
– “Này chư Tỳ khưu, ví như khắp mặt đất này bị ngập trong nước biển sâu; một người ném một cái ách 2 có lỗ nhỏ xuống nước. Khi gió đông thổi, cái ách ấy trôi về hướng Tây; khi gió tây thổi, cái ách ấy trôi về hướng Đông; khi gió nam thổi, cái ách trôi về hướng Bắc; khi gió bắc thổi, cái ách trôi về hướng Nam. Một con rùa đui ở dưới đáy biển, cứ mỗi khoảng cách thời gian trải qua 100 năm, 100 năm nó chỉ nổi lên trên mặt nước một lần.
Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này, con rùa đui ấy, cứ mỗi khoảng cách thời gian trải qua 100 năm nó mới nổi lên trên mặt nước một lần, nó có thể chui cái đầu đúng vào ngay cái lỗ của cái ách ấy được hay không?
Chư Tỳ khưu bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, cứ mỗi khoảng cách thời gian 100 năm, 100 năm, nó chỉ nổi lên trên mặt nướcmột lần. Con rùa đui chui cái đầu lọt đúng vào ngay cái lỗ của cái ách ấy thật vô cùng khó. Bạch Ngài.
Đức Phật dạy rằng:
– Này chư Tỳ khưu, cũng như thế! Được sinh làm người là một điều khó.
Đức Như Lai, Bậc Arahán, Bậc Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
Pháp và Luật mà Như Lai đã thuyết giảng, rồi được phổ biến rộng rãi trong thế gian này là một điều khó.
Nay các con được sinh làm người, Như Lai, Đức Arahán, Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã xuất hiện trên thế gian, Pháp và Luật mà Như Lai đã thuyết giảng cũng được phổ biến rộng rãi trong thế gian này.
Này chư Tỳ khưu, như vậy, các con nên cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rằng: Đây là Khổ Thánh Đế, đây là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, đây là Diệt Khổ Thánh Đế, đây là Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế”.
Trong Chú giải bài kinh này dạy:
Nếu cái ách ấy chưa mục nát, nước biển cũng chưa khô cạn, con rùa đui cũng chưa chết, thì ráng sức chờ đợi thời gian trải qua cứ 100 năm, nó mới nổi lên mặt nước một lần, nếu may mắn gặp được cái ách ấy, và cái đầu con rùa đui chui đúng ngay vào cái lỗ của cái ách ấy. Nếu con rùa đui không gặp cái ách ấy, thì lại lặn xuống đáy biển nằm chờ đợi 100 năm sau. Và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi có cơ hội may, con rùa đui chui cái đầu vào lỗ của cái ách ấy được. Đó là một điều thật khó. Cho nên, Đức Phật dạy:
“Được sinh làm người là một điều rất khó, cũng như con rùa đui chui cái đầu đúng vào lỗ của cái ách.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian cũng là một điều rất khó, Giáo pháp của Đức Phật được lưu truyền trên thế gian cũng là một điều rất khó, cũng như con rùa đui chui cái đầu đúng vào lỗ cái ách”.
Thật vậy, khi Đức Phật đang còn hiện hữu trên thế gian, hằng ngày Ngài thường khuyên dạy, nhắc nhở các hàng Thanh Văn đệ tử rằng:
“Bhikkhave appamādena sampādetha. Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ. Dullabho manussattapaṭilābho. Dullabhā khaṇasampatti. Dullabhā pabbajjā. Dullabhaṃ saddhammassavanaṃ” 1 .
“Này chư Tỳ khưu, các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, thực hành Tứ Niệm Xứ.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó. Được sinh làm người là một điều khó. Có cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó. Được xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó. Được nghe chánh pháp là một điều khó”.
Đó là những điều khó mà Đức Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ nên dể duôi.
Hiện tại, chúng ta đang được sinh làm người, có duyên lành gặp được chánh pháp của Đức Phật đang còn lưu truyền trên thế gian này, đó cũng là một diễm phúc lớn lao và vô cùng hy hữu.
Chúng ta chớ nên dể duôi, cố gắng tinh tấn thực hành Tứ Niệm Xứ hoặc thực hành thiền tuệ.
Nếu chúng ta có đủ pháp hạnh ba-la-mật đã tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, hỗ trợ cho pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả nào, trở thành bậc Thánh Nhân, thì thật là cao quý biết dường nào!
Nếu chưa chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả nào trong kiếp hiện tại, thì âu cũng là cơ hội tốt, một dịp may hiếm có để bồi bổ thêm pháp hạnh ba-la-mật, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn trong kiếp vị lai.
Nếu vì sự dể duôi nào, chẳng may nghiệp ác có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới, thì đó là một sự thiệt hại lớn lao, làm trì hoãn thời gian, kéo dài vòng tử sinh luân hồi không sao hạn định được.
Vả lại, thời đại này, mạng sống của mỗi người trong chúng ta rất mong manh, bởi vì có nhiều chứng bệnh, mà có phải chứng bệnh nào cũng có thể chữa trị khỏi được cả đâu! Nếu chữa trị chứng bệnh không khỏi, thì đành phải chịu chết. Ngoài ra, còn có nhiều tai nạn đều có thể gây tai hại đến sinh mạng một cách dễ dàng, mà chính mình cũng không thể bảo vệ được mình. Ví dụ: Khi chúng ta đang ngồi trên xe, trên tàu, trên máy bay, v.v… khi ấy sinh mạng của chúng ta hoàn toàn giao trọn cho người tài xế lái xe, tài công lái tàu, phi công lái máy bay, v.v… có phải vậy không? Một khi mỗi người chúng ta chết mất kiếp người rồi, để tái sinh trở lại kiếp người thật vô cùng hy hữu, vì quá ít.
Nên tìm hiểu những bài kinh sau đây:
Tái Sinh Làm Người Quá Ít
Bài kinh Aññasutta 1 , được tóm lược như sau:
“Một thuở nọ, Đức Thế Tôn lấy một ít hạt cát đặt trên đầu móng tay, rồi Ngài gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:
– Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này. Số lượng hạt cát đang đặt trên đầu móng tay của Như Lai so với số lượng hạt cát trên trái đất này, số hạt cát nơi nào nhiều hơn?
Chư Tỳ khưu bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, số hạt cát trên trái đất quá nhiều, vô lượng không sao đếm được; còn số hạt cát được đặt trên đầu móng tay của Đức Thế Tôn chỉ là một số ít ỏi mà thôi. Số hạt cát trên trái đất nhiều gấp vô số lần, còn số hạt cát được đặt trên đầu móng tay của Đức Thế Tôn thật quá ít, không đáng kể, không đáng so sánh, chỉ là một phần nhỏ li ti mà thôi.
– Này chư Tỳ khưu, cũng như vậy, chúng sinh sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả được tái sinh làm người chỉ là số quá ít. Sự thật, ngoài tái sinh làm người ra, chúng sinh sau khi chết, do nghiệp cho quả tái sinh làm các loại chúng sinh khác thì quá nhiều”.
Tương tự như bài kinh Aññasutta trên, các bài kinh tiếp theo Đức Thế Tôn xác định rõ từng mỗi loài chúng sinh. Nội dung chính của mỗi bài kinh như sau:
“Cũng như vậy, loài người sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả được tái sinh làm người quá ít. Sự thật, loài người sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm chúng sinh trong địa ngục, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, loài người sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả được tái sinh làm người chỉ là quá ít. Sự thật, loài người sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm loài atula, làm loài ngạ quỷ, làm loài súc sinh,… thì quá nhiều.
Cũng như vậy, loài người sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư thiên trong các cõi trời dục giới; làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, trong cõi trời vô sắc giới số quá ít. Sự thật, loài người sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài ngạ quỷ, làm loài atula, làm loài súc sinh, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chư thiên sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh trở lại làm chư thiên, hoặc làm người trong cõi người quá ít. Sự thật, chư thiên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài ngạ quỷ, làm loài atula, làm loài súc sinh, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chúng sinh trong cõi địa ngục mãn nghiệp, sau khi chết do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người, hoặc làm chư thiên trong các cõi trời dục giới số quá ít. Sự thật, chúng sinh trong cõi địa ngục mãn nghiệp, sau khi chết do ác nghiệp cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục nhỏ, làm loài ngạ quỷ, làm loài atula, làm loài súc sinh, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chúng sinh loài súc sinh, sau khi chết do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người, hoặc làm chư thiên trong các cõi trời dục giới số quá ít. Sự thật, chúng sinh loài súc sinh, sau khi chết do ác nghiệp cho quả tái sinh trở lại làm loài súc sinh, làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài atula, làm loài ngạ quỷ, … thì quá nhiều.
Cũng như vậy, chúng sinh loài ngạ quỷ, sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người, hoặc làm chư thiên trong các cõi trời dục giới số quá ít. Sự thật, chúng sinh loài ngạ quỷ, sau khi chết do ác nghiệp cho quả tái sinh trở lại làm loài ngạ quỷ, làm chúng sinh trong cõi địa ngục, làm loài atula, làm loài súc sinh, … thì quá nhiều”…
Qua các bài kinh trên, hạng thiện trí phàm nhân có sự nhận thức đúng đắn rằng: “Chúng sinh (chưa phải là bậc Thánh Nhân) hễ còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì khó tránh khỏi bị sa đọa trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh”.
* Tại sao chúng sinh bị sa đọa trong 4 cõi ác giới?
Sở dĩ chúng sinh bị sa đọa trong 4 cõi ác giới là vì chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Chân lý Tứ Thánh Đế đó là:
– Khổ Thánh Đế (Dukkha ariyasacca) đó là chấp thủ trong ngũ uẩn, Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ.
– Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Dukkhasamudaya ariyasacca) đó là Tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Tập Thánh Đế.
– Diệt Khổ Thánh Đế (Dukkhanirodha ariyasacca) đó là Niết Bàn, Diệt Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Diệt Thánh Đế.
– Pháp hành dẫn đến diệt Khổ Thánh Đế (Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca) đó là Bát Chánh Đạo, pháp hành dẫn đến Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế là sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Đạo Thánh Đế.
Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ, hoặc thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế lần thứ nhất chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến và tâm hoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Bậc Thánh Nhập Lưu chắc chắn vĩnh viễn không còn tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinhnữa. Bậc Thánh Nhập Lưu chỉ còn tử sinh luân hồi trong cõi người và cõi trời dục giới nhiều nhất đến 7 kiếp nữa. Trong kiếp thứ 7 ấy chắc chắn sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế chứng đắc Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái không còn dư sót nữa, trở thành bậc Thánh Arahán, ngay trong kiếp ấy sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Như vậy, chúng sinh còn luẩn quẩn trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài là vì chưa từng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Thật vậy, trích dẫn một đoạn kinh trong bài kinh Mahāparinibbānasutta 1 (Kinh Đại Niết Bàn) như sau:
“Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại làng Koṭi trong xứ Vajji. Khi ấy, Đức Thế Tôn gọi chư Tỳ khưu bèn dạy rằng:
– Này chư Tỳ khưu, trước kia, vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, nên Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Chân lý Tứ Thánh Đế mà chưa chứng ngộ là thế nào?
Này chư Tỳ khưu, vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt “Khổ Thánh Đế ”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt “Nhân sinh Khổ Thánh Đế”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt “Diệt Khổ Thánh Đế”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Vì chưa chứng ngộ, chưa thông suốt “Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế”. Vì vậy, Như Lai cùng các con đã phải trải qua suốt thời gian lâu dài từ vô thủy, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Này chư Tỳ khưu, nay Như Lai đã chứng ngộ, đã thông suốt “Khổ Thánh Đế”; đã chứng ngộ, đã thông suốt “Nhân sinh Khổ Thánh Đế”; đã chứng ngộ, đã thông suốt “Diệt Khổ Thánh Đế”; đã chứng ngộ, đã thông suốt “Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế”; đã diệt đoạn tuyệt tham ái trong mọi kiếp (bhavataṇhā) không còn dư sót; tham ái trong kiếp ví như sợi dây cột cổ dẫn dắt tái sinh kiếp sau đã bị cắt đứt xong rồi. Bây giờ, Như Lai không còn tái sinh kiếp nào nữa”.
Sau khi thuyết xong thời pháp, Đức Thế Tôn thuyết bài kệ tóm tắt rằng:
“Catunnaṃ ariyasaccānaṃ, Yathābhūtaṃ adassanā. Saṃsitaṃ dīghamaddhānaṃ, Tāsu tāsveva jātisu. Tāni etānī diṭṭhāni, Bhavenetti samūhatā, Ucchinnaṃ mūlaṃ dukkhassa. Natthi dāni punabbhavo 1 ”.
Vì chưa ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, Nên đã phải trải qua suốt thời gian Lâu dài trong vòng tử sinh luân hồi Từ vô thủy kiếp này sang kiếp khác. Nay Như Lai đã ngộ Tứ Thánh Đế, Tham ái, sợi dây đã bị đoạn tuyệt, Gốc rễ của Khổ đế bị chặt đứt. Nay không còn tái sinh kiếp nào nữa.
Đức Thế Tôn thuyết dạy pháp hành giải thoát khổ sinh: Đây là giới, đây là định, đây là tuệ.
* Do nương nhờ nơi giới, nên định được phát sinh, đem lại nhiều quả báu trong tam giới, trong Siêu tam giới.
* Do nương nhờ nơi định, nên tuệ được phát sinh, đem lại nhiều quả báu trong tam giới, trong Siêu tam giới.
* Do nương nhờ nơi tuệ, nên phát sinh Siêu tam giới tâm, đó là 4 Tâm Thánh Đạo, 4 Tâm Thánh Quả giải thoát khỏi phiền não trầm luân 2 : Dục giới trầm luân (kāmāsava); kiếp trầm luân trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới (bhavāsava) và vô minh trầm luân (avijjāsava).