45 HẠ (VASSA) CỦA ĐỨC PHẬT GOTAMA
Theo lệ thường Chư Phật không ở một nơi nào suốt trong thời gian lâu, chỉ khi nào đến mùa an cư nhập hạ, khi ấy Chư Phật mới ở một nơi suốt ba tháng hạ theo truyền thống của Chư Phật.
Từ khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian cho đến khi tịch diệt Niết Bàn, Ngài chỉ có 45 hạ mà thôi (Đức Bồ-tát Siddhattha đản sinh ngày 15/4AL. Ngài xuất gia ngày 15/6AL lúc 29 tuổi. Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào ngày 15/4AL năm 33 tuổi. Ngài tịch diệt Niết Bàn vào ngày 15/4AL năm 80 tuổi). Theo thông lệ, Đức Phật thường du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành nên tế độ, trong khoảng thời gian mau hoặc lâu tùy duyên. Nhưng đến mùa an cư nhập hạ, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng ở một nơi nào đó suốt 3 tháng trong mùa mưa. Khi mãn hạ, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng du hành đến những nơi khác để thuyết pháp tế độ chúng sinh.
Theo tuần tự 45 hạ của Đức Phật
Tóm lược những điểm đặc biệt mỗi hạ của Đức Phật
1- Hạ đầu tiên: Sau khi thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân(Dhammacakkappavattanasutta) lần đầu tiên là vào ngày rằm tháng sáu để tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu có Ngài Koṇḍanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu. Ngay khi ấy Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, Tam Bảo trọn vẹn lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian.
Ngày 16 tháng 6, ngày bắt đầu của mùa mưa. Đức Phật cùng nhóm 5 Tỳ-khưu an cư nhập hạ thứ nhất tại vườn phóng sinh nai gọi là Isipatana gần kinh thành Bārāṇasi suốt 3 tháng, cho đến ngày 16 tháng 9 mới mãn hạ.
Vào ngày đầu an cư nhập hạ là ngày 16 tháng 6, Ngài Đại đức Vappa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu.
Ngày 17 tháng 6, là ngày Ngài Đại đức Bhaddiya, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu.
Ngày 18 tháng 6, là ngày Ngài Đại đức Mahānāma, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu.
Ngày 19 tháng 6, là ngày Ngài Đại đức Assaji, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ-khưu.
Ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết giảng bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇsutta) tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu, tất cả đều chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả, Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán.
Đó là 5 vị thánh Arahán đầu tiên xuất hiện trên thế gian, trong những ngày đầu mùa hạ này. Sau đó, Đức Phật đã thuyết pháp tế độ cho các hàng Thanh Văn đệ tử, thêm 55 vị nữa đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.
Sau khi mãn hạ, Đức Phật và 60 vị Thánh Arahán, mỗi vị đi một hướng thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ.
2- Hạ thứ nhì: Đức Phật cùng 20.000 chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veluvana gần kinh thành Rājagaha.
Sau khi mãn hạ, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng sinh.
3-4 Hạ thứ ba và thứ tư: Đức Phật ngự du hành khắp mọi nơi để thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ. Đến mùa mưa Đức Phật trở lại an cư nhập hạ thứ ba và thứ tư cùng với chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng tại ngôi chùa Veluvana gần kinh thành Rājagaha.
5- Hạ thứ năm: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn gần kinh thành Vesāli. Khi ấy bà Mahāpajāpatigotamī cùng 500 người nữ dòng Sakya tự cạo đầu mặc y giống như bậc xuất gia, đi chân không từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Vesāli, đứng khóc trước cổng giảng đường Kuṭāgāra vì tủi thân do Đức Phật chưa cho phép người nữ xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni trong giáo pháp của Ngài.
Đại đức Ānanda gặp bà Mahāpajāpatigotamī mới hiểu rõ ý nguyện của bà, nên vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép người nữ được xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni.
Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:”Nếu bà Mahāpajāpatigotamī chấp thuận 8 trọng pháp(garudhamma), thì đó là sự xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni của bà”.
Đại đức Ānanda trở ra thưa lại cho bà rõ 8 trọng pháp ấy; bà vô cùng hoan hỷ chấp thuận 8 trọng pháp ấy và nghiêm chỉnh thực hành đầy đủ trọn vẹn cho đến suốt đời. Đó là sự xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni của bà Mahāpajāpatigotamī, còn 500 người nữ dòng Sakya xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni theo cách ñatticatutthakammavācā. Như vậy, Tỳ-khưu ni Tăng xuất hiện trong giáo pháp của Đức Phật Gotama bắt đầu từ hạ thứ năm của Đức Phật.
6- Hạ thứ sáu: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại núi Makulatrong xứ Magadha. Một sự việc xảy ra, ông phú hộ Rājagaha có một gốc cây trầm đỏ rất quý giá, ông cho thợ tiện một cái bát rồi treo trên một cây cao và thông báo rằng:
– Trong đời này, nếu có vị nào là bậc Thánh Arahán, có thần thông, thì xin vị ấy bay lên lấy cái bát trầm này, tôi sẽ phát sinh đức tin nơi vị ấy.
Sáu nhóm ngoại đạo thường tự cho mình là bậc Arahán có nhiều thần thông, đều đến xin ông phú hộ dâng cái bát trầm ấy, nhưng ông phú hộ thưa rằng:
– Nếu Ngài là bậc Arahán có thần thông, thì xin Ngài bay lên lấy cái bát trầm xuống đây.
Đã 6 ngày qua không có một vị nào bay lên lấy cái bát trầm ấy được. Dân chúng trong thành Rājagaha thầm nghĩ rằng trong đời này không có bậc Thánh Arahán chăng?
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và Ngài Đại đức Piṇḍobhāradvāja đi vào khất thực trong kinh thành Rājagaha, khi nghe tin như vậy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna bảo Ngài Đại đức Piṇḍobhāradvāja bay lên lấy cái bát trầm, để đem lại đức tin cho mọi người.
Ngài Đại đức Piṇḍobhāradvāja hóa phép thần thông bay lên lấy cái bát trầm ấy, rồi bay 3 vòng quanh kinh thành Rājagaha, rồi đáp nhẹ xuống ngôi nhà ông phú hộ. Ông phú hộ phát sinh đức tin trong sạch, thỉnh Ngài vào lâu đài, ngồi trên chỗ cao quý, rồi đảnh lễ Ngài và đón nhận cái bát, cúng dường vật thực ngon lành dâng lên Ngài Đại đức.
Đại đức Piṇḍobhāradvāja trở về chùa, có số đông dân chúng chưa được tận mắt nhìn thấy Ngài biểu diễn thần thông, nên họ kéo nhau đến tìm Ngài, xin Ngài biểu diễn thần thông cho họ xem.
Khi ấy, Đức Thế Tôn biết sự việc xảy ra, nên hội họp chư Tỳ-khưu Tăng lại và Đức Thế Tôn quở trách Đại đức Piṇḍobhāradvāja rằng:
– Này Piṇḍobhāradvāja, chỉ có cái bát trầm này, mà con biểu diễn thần thông cho người tại gia xem. Đó không phải là phận sự của Samôn, không làm phát sinh đức tin đối với người chưa có đức tin.
Đó là nguyên nhân đầu tiên, Đức Phật chế định cấm Tỳ-khưu không được biểu diễn thần thông cho người tại gia xem. Tỳ-khưu nào biểu diễn thần thông, Tỳ-khưu ấy phạm giới tác ác(dukkaṭa).
Sau đó, Đức Phật truyền dạy đập bể cái bát trầm ra từng mảnh nhỏ, tán mịn làm thuốc nhỏ mắt cho Tỳ-khưu đau mắt.
7- Hạ thứ bảy: Đức Phật ngự lên cung trời Tam Thập Tam Thiên, để an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa, thuyết giảng Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi Diệu Pháp) gồm có 7 bộ lớn: Bộ Dhammasaṅgaṇī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhatukathā, bộ Puggalapaññatti, bộ Kathāvatthu, bộYamaka và bộ Paṭṭhāna để tế độ Phật Mẫu (kiếp hiện tại là một thiên nam Santussita hóa sinh ở cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên), chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, cùng vô số chư thiên, phạm thiên chứng đắc thành bậc Thánh thấp hoặc cao tùy theo ba-la-mật của họ.
Vào ngày 15 tháng 9, Đức Phật từ cõi trời Tam Thập Tam Thiên trở về cõi người tại cổng thành xứ Saṅkassa, chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng, chư Tỳ-khưu ni Tăng, cận sự nam, cận sự nữ đông đảo đón rước Đức Phật.
8- Hạ thứ tám: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa trong khu rừng Bhesakaḷavana vùng Bhaggajanapada để tế độ dân chúng thành Susumāragira.
9- Hạ thứ chín: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Ghositārama gần kinh thành Kosambi.
10- Hạ thứ mười: Hai nhóm Tỳ-khưu xứ Kosambi cãi cọ nhau, Đức Phật khuyên giải nhưng họ không chịu nghe lời, nên Ngài ngự vào khu rừng Pālileyyaka an cư nhập hạ một mình, suốt 3 tháng mùa mưa. Khu rừng Pālileyyaka ở khoảng giữa kinh thành Kosambi và kinh thành Sāvatthi.
11- Hạ thứ mười một: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng ngự đến tỉnh lỵ Dakkhiṇagiri, rồi an cư nhập hạ tại ngôi chùa Dakkhiṇagiri, gần xóm nhà Bàlamôn Ekanāḷa để tế độ ông Bàlamôn tên Kasibhāradvāja xuất gia trở thành Tỳ-khưu; Tỳ-khưu Kasibhāradvājatiến hành thiền tuệ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.
12- Hạ thứ mười hai: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bàlamôn Verañja. Trong lúc ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho nên chư Tỳ-khưu đi khất thực không được vật thực. Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ-khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước bố thí cúng dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu; đặc biệt dâng cúng dường Đại đức Ānanda những món bơ, mật ong, đường…, để Đại đức Ānanda làm vật thực dâng cúng lên Đức Phật.
Trong 3 tháng an cư nhập hạ đó, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ (đó là một trong những quả ác nghiệp cũ của Đức Phật còn dư sót chút đỉnh, và cũng có thể làm ảnh hưởng đến chư Tỳ-khưu gần gũi với Đức Phật).
13- Hạ thứ mười ba: Đức Phật an cư nhập hạ tại một ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu, trong xứ Cāliya. Từ hạ đầu tiên cho đến hạ thứ mười ba này, Đức Phật chưa có một vị Tỳ-khưu nào là thị giả thường trực chăm sóc phục vụ Đức Phật, khi thì vị Tỳ-khưu này, khi thì vị Tỳ-khưu khác thay đổi nhau phục vụ Đức Phật. Trong mùa hạ này, vị Tỳ-khưu Meghiya là thị giả của Đức Phật. Một hôm, vị Tỳ-khưu đi khất thực trong xóm Jantu, nhìn thấy ngoài vườn xoài bên bờ sông, một cảnh đẹp thiên nhiên, yên tĩnh, đáng hài lòng, Ngài muốn đến nơi đó để hành đạo.
Khi trở về, Tỳ-khưu Meghiya vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép đi đến nơi đó để hành đạo theo ý muốn của mình. Đức Phật quán xét thấy chưa hợp thời, nên dạy rằng:
– Này con, con nên chờ có một vị Tỳ-khưu khác đến thay thế con, rồi con hãy đi.
Tuy vậy, Tỳ-khưu Meghiya vẫn năn nỉ xin đi, Đức Phật khuyên dạy 3 lần mà Tỳ-khưu Meghiya không chịu nghe lời, biết ngăn không được, nên Đức Phật đành phải cho phép. Tỳ-khưu Meghiya đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ra đi, để Đức Phật ở lại một mình trên núi Cāliya.
Khi Tỳ-khưu Meghiya đến vườn xoài ngồi hành đạo, thì tâm tà tư duy phát sinh, làm cho tâm nóng nảy, bực bội nên không thể tiến hành thiền định, không thể tiến hành thiền tuệ. Tỳ-khưu Meghiya trở về hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, người xuất gia với đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, khi tà tư duy, bất thiện pháp phát sinh làm trở ngại sự tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ; vậy cần phải có những pháp nào để diệt trừ tà tư duy, hỗ trợ cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Bạch Ngài.
Đức Phật dạy rằng:
– Này Meghiya, người chưa diệt được phiền não trầm luân thì cần phải có 5 pháp:
a) Có bạn lành, bạn tốt.
b) Là người có giới hạnh trong sạch, thu thúc trong giới luật, giữ gìn thân và khẩu trong sạch thanh tịnh, đi lại nơi an toàn cho phạm hạnh, thường thấy tai họa lớn trong lỗi nhỏ.
c) Là người biết tri túc trong 4 thứ vật dụng hằng ngày.
d) Có tâm tinh tấn không ngừng diệt ác pháp, làm cho thiện pháp phát sinh và tăng trưởng.
e) Có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp dẫn đến sự diệt phiền não trầm luân, giải thoát khổ.
Đó là 5 pháp diệt tà tư duy, để hỗ trợ cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ, dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
Tỳ-khưu Meghiya vâng lời dạy của Đức Phật. Về sau không lâu, Ngài tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán.
14- Hạ thứ mười bốn: Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Trong mùa hạ này, Sadi Rāhula tròn đủ 20 tuổi được nâng lên bậc Tỳ-khưu, do Ngài Đại đức Sāriputta là Thầy tế độ (upajjhāya) và Ngài Đại đức Mahāmoggallāna là Thầy tụng Tuyên ngôn và Thành sự ngôn (ācariya)
Đức Phật biết rõ Tỳ-khưu Rāhula có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, nên Ngài dự định thuyết pháp tế độ Tỳ-khưu Rāhula diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân.
Hôm ấy, sau khi ngự đi khất thực trong kinh thành Sāvatthi trở về, Đức Phật truyền dạy Tỳ-khưu Rāhula đem tọa cụ (tấm vải lót ngồi) đi vào rừng ở phía Nam kinh thành Sāvatthi để nghỉ trưa. Vô số chư thiên, phạm thiên cùng đi theo Tỳ-khưu Rāhula, do biết rằng Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Đại đức Rāhula để diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân.
Đức Phật thuyết bài kinh Cūḷarāhulovādasutta: Kinh dạy Tỳ-khưu Rāhula trẻ. Sau khi lắng nghe xong bài kinh, Tỳ-khưu Rāhula chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán cùng vơí Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, đồng thời có vô số chư thiên, phạm thiên cũng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán tùy theo ba-la-mật của họ.
15- Hạ thứ mười lăm: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh thành Kapilavatthu. Đức vua Mahānāma thuộc dòng tộc Sakya đã xây cất chỗ ở để dâng cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng có Đức Phật chủ trì. Đức Phật thuyết pháp nói về quả báu cao quý của sự bố thí chỗ ở đến chư Tỳ-khưu Tăng.
16- Hạ thứ mười sáu: Sau khi Đức Phật đã tế độ được dạ xoa Aḷavaka rất hung dữ hơn cả ma vương. Dạ xoa Aḷavaka đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Sau đó Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi tháp Aggāḷava trong xứ Āḷavī, để tế độ Đức vua Aḷavaka cùng dân chúng trong xứ.
17- Hạ thứ mười bảy: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veluvana gần kinh thành Rājagaha.
18 -19 Hạ thứ mười tám và mười chín: Đức Phật ngự đi thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ khắp mọi nơi. Khi gần đến mùa mưa, Đức Phật ngự đến ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu trong xứ Cāliya an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa.
20- Hạ thứ hai mươi: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veluvana, gần kinh thành Rājagaha.
Từ hạ đầu tiên đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức Phật chưa có một vị Tỳ-khưu nào làm thị giả thường trực để lo chăm sóc phục vụ Ngài; khi thì vị Tỳ-khưu này, khi thì vị Tỳ-khưu khác: Các vị Tỳ-khưu như Tỳ-khưu Nāgasamāla, Tỳ-khưu Nāgita, Tỳ-khưu Upavāṇa, Tỳ-khưu Sunakkhatta, Tỳ-khưu Cunda, Tỳ-khưu Sāgata, Tỳ-khưu Meghiya… thay đổi nhau làm phận sự phục vụ Đức Phật; chưa có một Tỳ-khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc Đức Phật; cho nên, đôi khi Đức Phật ngự đi khất thực một đường, vị Tỳ-khưu ôm bát theo Đức Phật lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Đức Phật xuống đất rồi đi theo ý của mình, hoặc đôi khi có vị Tỳ-khưu đang phục vụ Đức Phật, thì xin đi hành đạo một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức Phật, không có vị Tỳ-khưu nào lo chăm sóc phục vụ cho Ngài.
Trong mùa hạ này, một hôm, Đức Phật đang ngự tại cốc Gandhakuṭi, khi ấy chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng đến tụ hội xung quanh nơi Đức Phật, Ngài truyền dạy rằng:
– Này chư Tỳ-khưu, nay Như Lai đã lớn tuổi rồi (55 tuổi), các Tỳ-khưu đến chăm sóc, phục vụ Như Lai; đôi khi Như Lai đi khất thực một đường, vị Tỳ-khưu ấy mang bát theo Như Lai lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Như Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình….
Này chư Tỳ-khưu, các con nên chọn một vị Tỳ-khưu làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Như Lai.
Khi lắng nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, Đại đức Sāriputta đảnh lễ Đức Thế Tôn chắp hai tay bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin được làm thị giả thường trực hằng ngày, hằng đêm lo chăm sóc phục vụ Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn không chấp thuận theo lời xin của Đại đức Sāriputta.
Tiếp đến Đại đức Māhāmoggallāna bạch xin, Đức Thế Tôn cũng không chấp thuận. Theo tuần tự các chư Đại Thanh Văn đều xin, Đức Thế Tôn cũng không chấp thuận một vị nào cả. Duy chỉ còn Đại đức Ānanda đang ngồi im lặng. Chư Đại đức Tỳ-khưu động viên khuyến khích Đại đức Ānanda bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức Thế Tôn.
Khi ấy, Đại đức Ānanda đảnh lễ Đức Thế Tôn chắp hai tay bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin Ngài tám đặc ân, nếu Ngài ban cho con đủ tám đặc ân ấy, thì con sẽ xin làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Ngài.
Bốn đặc ân khước từ
a) Kính xin Đức Thế Tôn không ban cho con tấm y tốt mà Ngài có.
b) Kính xin Đức Thế Tôn không ban cho con vật thực ngon lành mà Ngài có.
c) Kính xin Đức Thế Tôn không ban cho con ở chung với Ngài trong cốc Gandhakuṭi.
d) Kính xin Đức Thế Tôn không cho con đi theo Ngài đến nhà thí chủ mà họ thỉnh mời Ngài.
Đức Phật truyền hỏi rằng:
– Này Ānanda, con xét thấy bất lợi như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khước từ như vậy?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, con muốn tránh những lời gièm pha của người khác cho rằng:Con xin làm thị giả thường trực của Đức Thế Tôn để mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức Thế Tôn, được đi theo Đức Thế Tôn đến nhà thí chủ thỉnh mời Ngài.
Đức Thế Tôn chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của Đại đức Ānanda.
Bốn đặc ân khẩn khoản
a) Kính xin Đức Thế Tôn ngự đến nơi, mà con đã nhận lời thỉnh mời.
b) Kính xin Đức Thế Tôn cho phép con dẫn các người từ các phương xa khác đến hầu Ngài.
c) Kính xin Đức Thế Tôn cho phép con được vào hầu Ngài, để hỏi những pháp mà con chưa hiểu biết.
d) Đức Thế Tôn thuyết pháp nơi nào, khi con vắng mặt, kính xin Ngài thuyết lại pháp ấy cho con được nghe.
Đức Phật truyền hỏi rằng:
– Này Ānanda, con xét thấy những điều lợi ích như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khẩn khoản như vậy?
– Kính bạch Đức Thế Tôn,
Đặc ân thứ nhất: Những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo đến hầu thỉnh Đức Thế Tôn, mà không gặp được Ngài, con có thể thay mặt nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức Thế Tôn không ngự đi đến nơi đó, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Con là người thị giả thường trực của Đức Thế Tôn, vậy mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức Thế Tôn cũng không giúp được”.
Đặc ân thứ nhì: Những người từ các phương xa đến hầu Đức Thế Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn để nghe pháp, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu Đức Thế Tôn, nghe Ngài thuyết pháp; nhưng vị Tỳ-khưu thị giả của Đức Thế Tôn cũng không giúp cho chúng ta được có cơ hội ấy”. Như vậy, họ sẽ giảm đức tin nơi Tam Bảo.
Đặc ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức Thế Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin hỏi lại pháp ấy, Đức Thế Tôn giảng giải cho con được hiểu rõ, thì con được thuận lợi cho việc tiến hành thiền tuệ của con.
Đặc ân thứ tư: Có người hỏi con rằng: “Bài kinh này, pháp này, tiền thân này… Đức Thế Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?”
Nếu con trả lời với họ “Tôi không biết”, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Đại đức Ānanda là thị giả của Đức Thế Tôn, vậy mà bài kinh ấy, pháp ấy, tiền thân ấy… cũng không biết”. Do đó, con cần phải biết những bài kinh ấy, những pháp ấy, những tiền thân ấy… để trả lời cho họ hiểu rõ.
Sau khi nghe Đại đức Ānanda giải thích ý nghĩa của mỗi đặc ân, Đức Phật chấp thuận đủ tám đặc ân của Đại đức Ānanda. Bắt đầu từ thời gian ấy, Đại đức Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức Thế Tôn, cho đến lúc Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn.
Sở dĩ, Đại đức Ānanda được địa vị thị giả thường trực của Đức Phật Gotama, là vì tiền kiếp của Ngài đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức Phật; lời phát nguyện ấy được Đức Phật Padumuttara, trong thời quá khứ đã thọ ký và Ngài cũng đã tạo ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất.
21 – 44 Hạ thứ hai mươi mốt đến hạ thứ bốn mươi bốn
45 hạ của Đức Phật chia ra 2 thời kỳ:
* Thời kỳ đầu: Kể từ hạ đầu tiên đến hạ thứ 20, mỗi hạ Đức Phật an cư nhập hạ nơi nào, tế độ cho chúng sinh nào được ghi chép lại rõ ràng.
* Thời kỳ cuối: Kể từ hạ thứ 21 đến hạ thứ 44, Đức Phật an cư nhập hạ một trong hai ngôi chùa. Khi thì tại ngôi chùa Jetavana, khi thì tại ngôi chùa Pubhārama gần kinh thành Sāvatthi.
Sau khi mãn hạ, Đức Phật thường ngự đi thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành nên tế độ dù gần, dù xa trong cõi người, hoặc cõi trời dục giới, sắc giới. Khi đến gần mùa mưa, Đức Phật trở lại kinh thành Sāvatthi, an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, hoặc tại ngôi chùa Pubhārama. Bởi vì, Đức vua Pasenadi Kosala ở kinh thành Sāvatthi, là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có tâm tôn kính Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Đặc biệt, có hai đại thí chủ là ông phú hộ Anāthapiṇḍika và bà đại thí chủ Visākhā, trong nhà của hai thí chủ này hằng ngày luôn có sắp đặt sẵn 500 chỗ ngồi để đón rước chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng đến khất thực. Và phần đông dân chúng trong kinh thành Sāvatthi là những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hoan hỷ trong việc bố thí cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ-khưu Tăng. Do đó, khi Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, hoặc tại ngôi chùa Pubhārama, thì có số đông chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng cũng an cư nhập hạ tại một trong hai ngôi chùa này, và các nơi gần kinh thành Sāvatthi, để chư Tỳ-khưu có được nhiều điều thuận lợi, nhất là bốn thứ vật dụng, trong suốt mùa an cư nhập hạ. Cho nên, việc tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ của chư Tỳ-khưu được thuận lợi và dễ dàng phát triển.
45- Hạ thứ bốn mươi lăm: Hạ cuối cùng
Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi làng nhỏ Veḷuvagāma, gần kinh thành Vesāli, Ngài cho phép chư Đại đức Tỳ-khưu nhập hạ quanh làng gần Đức Phật, để cho tiện việc đến tụ hội nghe lời giáo huấn của Ngài. Bởi vì, Ngài biết rõ rằng chỉ còn khoảng 10 tháng nữa, Ngài sẽ tịch diệt Niết Bàn.
Trong mùa an cư nhập hạ này, Đức Phật lâm bệnh trầm trọng, tưởng chừng như sắp tịch diệt Niết Bàn, nhưng Ngài suy nghĩ rằng: “Như Lai chưa truyền dạy cho thị giả Ānanda, cùng chư Tỳ-khưu Tăng biết, mà tịch diệt Niết Bàn đó là điều không nên”. Do đó, Ngài cố nhẫn nại chịu đựng thọ khổ, rồi nhập Arahán Quả. Nhờ vậy, bệnh tình của Ngài được thuyên giảm.
Sau khi khỏi bệnh được không lâu, Đức Thế Tôn ngự ra khỏi cốc đến ngồi chỗ đã trải sẵn, Đại đức Ānanda đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, nhìn thấy Ngài khỏi bệnh, con hoan hỷ quá! Kính bạch Đức Thế Tôn, khi con thấy Ngài lâm bệnh trầm trọng, con có cảm giác toàn thân nặng nề, tâm con tăm tối, mờ mịt không còn biết rõ phương hướng, pháp hành tứ niệm xứ cũng không còn hiện rõ trong tâm con, bởi vì bệnh tình trầm trọng của Đức Thế Tôn. Nhưng có một điều mà con tự an ủi rằng:
Đức Thế Tôn chưa có lời di chúc đến chư Tỳ-khưu Tăng, thì có lẽ Ngài chưa tịch diệt Niết Bàn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda, chư Tỳ-khưu còn hy vọng gì nơi Như Lai nữa? Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng không hề phân biệt người thân bên trong, kẻ sơ bên ngoài, Như Lai không giống như các vị thầy khác, giấu các yếu pháp để chờ đến lúc trước khi lâm chung mới truyền lại cho người học trò tín cẩn.
Này Ānanda, vị Thầy nào nghĩ rằng: “Ta là người lãnh đạo nhóm chư Tỳ-khưu Tăng, và nhóm chư Tỳ-khưu Tăng nương nhờ nơi ta”, thì vị Thầy ấy mới có lời di chúc đến nhóm chư Tỳ-khưu Tăng ấy.
Này Ānanda, Như Lai không nghĩ rằng: “Như Lai là người lãnh đạo nhóm chư Tỳ-khưu Tăng, và nhóm chư Tỳ-khưu Tăng nương nhờ nơi Như Lai”. Như vậy, tại sao Như Lai lại có lời di chúc đến chư Tỳ-khưu Tăng.
Này Ānanda, bây giờ Như Lai đã đến thời lão niên rồi, tuổi đã cao, được 80 tuổi (kể từ khi đầu thai vào lòng Phật mẫu ngày rằng tháng sáu) rồi! Ví như chiếc xe cũ, sử dụng được là phải nhờ sửa chữa như thế nào, thì sắc thân của Như Lai cũng như thế ấy, luôn luôn cần được sửa chữa bằng cách nhập Arahán Thánh Quả.
Này Ānanda, khi nào Như Lai nhập Arahán Thánh Quả có đối tượng vô hiện tượng Niết Bàn diệt được các pháp trong tam giới, hưởng pháp vị an lạc Niết Bàn Siêu tam giới, khi ấy Như Lai mới thật sự được an lạc. Cho nên, các con nên sống có ta làm hòn đảo (trong biển khổ), có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là có chánh pháp làm hòn đảo, có chánh pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.
Này Ānanda, vì vậy, hiện tại Như Lai còn tại thế, cũng như trong vị lai, khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ-khưu cũng là người sống có ta làm hòn đảo, có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là Tỳ-khưu sống có chánh pháp làm hòn đảo, có chánh pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Tỳ-khưu ấy tiến hành tứ niệm xứ, sẽ là người cao thượng.
Đức Thế Tôn an cư nhập hạ tại nơi đây suốt 3 tháng, đây là hạ cuối cùng của Ngài.
Những ngày tháng cuối cùng của Đức Phật
Sau khi mãn hạ, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng trở lại kinh thành Sāvatthi, ngự tại ngôi chùa Jetavana.
Ngài Đại đức Sāriputta tịch diệt Niết Bàn
Ngài Đại đức Sāriputta tư duy rằng:
Chư Phật với bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn, vị nào sẽ tịch diệt Niết Bàn trước? Ngài biết rõ rằng: Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn tịch diệt Niết Bàn trước Đức Phật. Ngài quán xét về tuổi thọ của Ngài, biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn 7 ngày nữa.
Đại đức Sāriputta liền đến để đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, xin phép đi tịch diệt Niết Bàn.
Đức Phật bèn hỏi Đại đức Sāriputta rằng:
– Này Sāriputta, con sẽ tịch diệt Niết Bàn tại nơi nào?
Ngài Đại đức Sāriputta bạch với Đức Thế Tôn:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, con sẽ tịch diệt Niết Bàn tại ngôi làng Nālākagāma xứ Magadha nơi con đã sinh trưởng, đồng thời để tế độ cho thân mẫu của con. Tuy bà có bảy người con thành bậc Thánh Arahán, song bà vẫn chưa có đức tin nơi Tam Bảo.
Ngài Đại đức Sāriputta cùng 500 đệ tử đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin phép từ giã Đức Phật. Ngài trở về lại ngôi nhà, ở tại căn phòng xưa của mình. Trong đêm cuối cùng của cuộc đời, Ngài phát bệnh kiết lỵ đi ngoài, phân lẫn nhiều máu, bệnh tình rất trầm trọng. Khi ấy, bà thân mẫu của Ngài đứng nhìn qua căn phòng của Ngài, thấy Tứ Đại Thiên Vương có hào quang sáng ngời đến chiêm bái đảnh lễ Ngài lần cuối cùng, rồi lui ra. Tiếp đến, Đức vua trời Sakka từ cõi Tam Thập Tam Thiên đến chiêm bái đảnh lễ Ngài, rồi lui ra. Tuần tự các Đức vua ở cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua cõi Đẩu Suất Đà Thiên, Đức vua cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên trong các cõi trời dục giới và tiếp đến chư Đại Phạm Thiên cõi trời sắc giới cũng đều đến chiêm bái đảnh lễ Ngài lần cuối cùng.
Bà thân mẫu của Ngài nhìn thấy chư thiên, Đại Phạm Thiên có hào quang sáng ngời, vị sau hơn vị trước, bà muốn biết những vị chư thiên ấy là vị nào, mà có lòng tôn kính con của bà đến như thế! Nên bà đến phòng của Ngài, hỏi Đại đức Cunda (con trai của bà) rằng:
– Này Cunda, các vị chư thiên nào mà có lòng tôn kính đến chiêm bái đảnh lễ sư huynh của con như vậy?
Đại đức Cunda thưa rằng:
– Thưa thân mẫu, bốn vị chiêm bái, đảnh lễ đầu tiên đó là Tứ Đại Thiên Vương.
Bà nghĩ thầm: “Tứ Đại Thiên Vương có lòng tôn kính chiêm bái, đảnh lễ con ta; con ta cao thượng như vậy sao! Nếu vậy, thì Đức Phật là Bậc Thầy của con ta chắc chắn Ngài còn cao thượng hơn nhiều”. Và bà hỏi tiếp:
– Này Cunda, còn các vị chư thiên khác là vị nào vậy?
Đại đức Cunda thưa tiếp:
– Thưa thân mẫu, kế đến là Đức vua trời Sakka từ cõi trời Tam Thập Tam Thiên, Đức vua trời Sujāma cõi trời Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi trời Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Paranimmita từ cõi trời Tha Hóa Tự Tại Thiên, và tiếp đến Chư Đại Phạm Thiên từ các tầng trời sắc giới…
Nghe vậy bà thầm nghĩ rằng: “Đại Phạm Thiên mà ta tôn kính, chư Đại Phạm Thiên ấy lại có lòng tôn kính, chiêm bái đảnh lễ con của ta, con ta cao thượng đến như vậy sao! Nếu vậy, Đức Phật là Bậc Thầy của con ta, chắc chắn Ngài còn cao thượng biết dường nào!”
Nghĩ vậy, bà phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có, bà ân cần thăm hỏi bệnh tình của Ngài Sāriputta và bày tỏ ý nghĩ của mình. Ngài Đại đức Sāriputta biết đúng lúc hợp thời, nên Ngài thuyết giảng về Ân đức Phật để tế độ thân mẫu của Ngài. Sau khi lắng nghe pháp xong, bà liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam Bảo.
Ngài Đại đức Sāriputta suy tư rằng: “Nay ta đã đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của thân mẫu”. Khi ấy, sắp rạng đông, Ngài Đại đức Sāriputta bảo Đại đức Cunda, cho truyền gọi chư Tỳ-khưu đến tụ hội đông đủ, rồi đỡ Ngài ngồi dậy và Ngài dạy rằng:
– Này chư hiền giả, quý vị đã theo tôi suốt 44 năm, nếu tôi có làm điều gì, có nói lời nào làm phật lòng quý vị; nay xin quý vị hiền giả hãy bỏ lỗi cho tôi.
Chư Tỳ-khưu bạch rằng:
– Kính bạch Đại đức, Ngài là vị Thầy khả kính, khả ái của chúng con; chúng con không chấp một điều gì cả; và chúng con đã theo Ngài như bóng theo hình, suốt 44 năm qua, nếu chúng con có làm điều gì, có nói lời nào làm phật lòng Ngài; thì nay kính xin Ngài từ bi tha thứ cho chúng con. Bạch Ngài.
Sau buổi lễ chân thành sám hối lẫn nhau, vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch) Ngài Đại đức Sāriputta tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, ngay khi ấy đồng thời trái đất cũng tự nhiên rùng mình chuyển động.
Sau khi lễ hỏa táng thi thể Ngài Đại đức Sāriputta xong, Đại đức Cunda thỉnh Xá lợi của Ngài Sāriputta đến dâng Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana, Đức Thế Tôn truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá lợi Ngài Sāriputta tại kinh thành Sāvatthi.
Ngài Māhāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn
Sau khi Ngài Đại đức Sāriputta tịch diệt Niết Bàn, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng từ kinh thành Sāvatthi ngự đến kinh thành Rājagaha, ngự tại ngôi chùa Veluvana. Khi ấy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna đang trú tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha, nhóm ngoại đạo thuê mướn nhóm cướp vây đánh Ngài, đã biết bao lần Ngài đều lẫn tránh được; lần cuối cùng Ngài quán xét thấy nghiệp ác cũ đến thời kỳ cho quả, nên Ngài nhẫn nại chịu đựng để nhóm cướp đánh đập Ngài tan xương nát thịt. Chúng tưởng Ngài đã chết nên ném xác Ngài vào bụi cây rồi bỏ đi. Ngài vận dụng thần thông liên kết xương thịt lại, bay đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép tịch diệt Niết Bàn. Ngài Đại đức Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn vào ngày 30 tháng 10(âm lịch), tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha .
Lễ hỏa táng xong, Đức Phật truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá lợi Ngài Mahāmoggallānatại kinh thành Rājagaha.
Như vậy, trong tháng 10 (âm lịch) năm ấy hai vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn đã tịch diệt Niết Bàn.
Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ-khưu Tăng từ kinh thành Rājagaha du hành đến kinh thành Vesāli. Một hôm, Đức Thế Tôn ngự vào thành Vesāli khất thực, sau khi thọ thực xong Đức Phật dạy bảo Đại đức Ānanda cùng ngự đến ngôi tháp Cāpālacetiya. Sau khi Đức Thế Tôn ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Đại đức Ānanda đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda, bậc nào đã thường tiến hành 4 pháp thành tựu (idhipāda), đã tiến hành trở thành thuần thục, đã tiến hành trở thành nền tảng vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh tấn không ngừng tiến hành 4 pháp thành tựu này.
Này Ānanda, bậc ấy có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ hoặc hơn kiếp tuổi thọ như ý.
Này Ānanda, Như Lai đã thường tiến hành 4 pháp thành tựu, đã tiến hành trở thành thuần thục, đã tiến hành trở thành nền tảng vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh tấn không ngừng tiến hành 4 pháp thành tựu này.
Này Ānanda, Như Lai cũng có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm) hoặc hơn kiếp tuổi thọ (hơn 100 năm) vậy.
Đức Thế Tôn đã dạy gián tiếp như vậy, mà Đại đức Ānanda không hiểu, nên không thỉnh mời Đức Thế Tôn rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài duy trì suốt kiếp tuổi thọ (100 năm).
Kính xin Ngài duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự an lạc phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên và nhân loại.
Bởi vì, khi ấy Đại đức Ānanda bị Ma vương quấy nhiễu, nên không hiểu ý của Đức Thế Tôn. Dù Đức Thế Tôn dạy như vậy lần thứ hai, lần thứ ba, Đại đức Ānanda vẫn không hiểu được; Ngài đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép đi ra ngoài ngồi dưới gốc cây không xa nơi Đức Thế Tôn.
Ma vương thỉnh Đức Phật tịch diệt Niết Bàn
Khi Đại đức Ānanda vừa mới ra ngoài, Ác Ma Thiên liền đến hầu Đức Thế Tôn, rồi đứng một nơi hợp lẽ và bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài tịch diệt Niết Bàn, kính xin Ngài tịch diệt Niết Bàn ngay bây giờ! Bây giờ là lúc tịch diệt Niết Bàn của Ngài.
Thật ra, Ác Ma Thiên đã nhiều lần đến thỉnh Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn, những lần trước Đức Thế Tôn đều khước từ. Nhưng lần này, Đức Thế Tôn hứa với Ác Ma Thiên rằng:
– Này Ác Ma Thiên, ngươi hãy yên tâm, không lâu nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn. Kể từ nay chỉ còn ba tháng nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn.
Như vậy, Đức Thế Tôn có trí tuệ sáng suốt, xác định thời gian ba tháng nữa sẽ xả tuổi thọ, sinh mạng của Ngài, tại ngôi Tháp Cāpālacetiya, đó là vào ngày rằm tháng giêng (âm lịch). Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động.
Đại đức Ānanda thấy điều lạ thường, trái đất rung chuyển nên vào hầu Đức Thế Tôn, bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, do nguyên nhân nào làm trái đất rung chuyển, bạch Ngài.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda, ngay hôm nay, vừa rồi, Như Lai có trí tuệ sáng suốt hứa với Ác Ma Thiên rằng: “Chỉ còn ba tháng nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn”.
Nghe như vậy, Đại đức Ānanda kính thỉnh rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin kính thỉnh Ngài duy trì tuổi thọ trọn kiếp tuổi thọ (100 năm). Con xin kính thỉnh Ngài duy trì tuổi thọ trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự an lạc phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên và nhân loại.
Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda, con chớ nên thỉnh Như Lai nữa; bây giờ không phải lúc thỉnh cầu Như Lai nữa. Như Lai đã gián tiếp dạy con nhiều lần mà con vẫn không hiểu, con không có lời thỉnh cầu Như Lai. Nay Như Lai đã hứa với Ác Ma Thiên rồi, không thể nào khác được.
Đại đức Ānanda cảm thấy buồn vô hạn, hối hận về điều sơ suất của mình, nên Đức Thế Tôn an ủi Đại đức Ānanda rằng:
– Này Ānanda, Như Lai đã từng dạy rằng: “Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy, đó là điều hiển nhiên. Do đó, làm sao lại có thể, có những người thân yêu, các bậc kính mến ấy theo ý muốn của mình được!”.
Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn có sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng: “xin pháp ấy đừng hủy hoại”, đó là điều không thể nào có được.
Này Ānanda chúng ta cùng nhau đến giảng đường Kuṭāgāra trong khu rừng lớn.
Đại đức Ānanda theo sau Đức Thế Tôn đến giảng đường Kuṭāgāra. Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda, con nên đi mời tất cả chư Tỳ-khưu trong thành Vesāli đến tụ hội tại giảng đường Upaṭṭhāna.
Đại đức Ānanda vâng theo lời dạy Đức Thế Tôn đi mời chư Tỳ-khưu. Sau đó, Ngài Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, chư Tỳ-khưu Tăng đã đến tụ hội đông đủ tại giảng đường Upaṭṭhāna, con xin kính thỉnh Ngài.
Chánh pháp căn bản, 37 pháp chứng đắc Thánh Đạo
Đức Thế Tôn ngự đến giảng đường, ngồi trên chỗ cao quý, truyền dạy chư Tỳ-khưu Tăng rằng:
– Này chư Tỳ-khưu, chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn. Chánh pháp ấy, các con nên học hỏi hiểu biết rõ, rồi nên thực hành, thường tiến hành pháp ấy, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, để duy trì phạm hạnh cao thượng, để chánh pháp được trường tồn lâu dài, để đem lại sự lợi ích, sự an lạc cho phần đông chúng sinh, để tế độ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên và nhân loại.
Này chư Tỳ-khưu, chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn đó là:
4 pháp niệm xứ (satipaṭṭhāna): Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
4 pháp tinh tấn (samappadhāna): Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh, tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh, tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh, tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
4 pháp thành tựu (idhipāda): Thành tựu do hài lòng, thành tựu do tinh tấn, thành tựu do quyết tâm, thành tựu do trí tuệ.
5 pháp chủ (indriya): Tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ.
5 pháp lực (bala): Tín pháp lực, tấn pháp lực, niệm pháp lực, định pháp lực, tuệ pháp lực.
7 pháp giác chi (bojjhaṅga): Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi.
8 pháp chánh đạo (magga): Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
– Này chư Tỳ-khưu, chánh pháp này mà Như Lai đã thuyết giảng đến các con, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Này chư Tỳ-khưu, bây giờ Như Lai nhắc nhở các con rằng:
“Tất cả các pháp hữu vi (danh pháp – sắc pháp) có sự hoại là thường, các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ.
Thời gian không lâu, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn, kể từ hôm nay còn 3 tháng nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn”.
Tiếp theo Đức Thế Tôn dạy bài kệ:
“Paripakko vayo mayhaṃ
Parittaṃ me jīvitaṃ
Pahāya vo gamissāmi
Kataṃ me saraṇamattano
Appamattā satīmanto
Susīlā hotha bhikkhavo
Susamāhitasaṅkappā
Sacittamanurakkhatha
Yo imasmiṃ dhammavinaye
Appamatto vihassati
Pahāya jātisaṃsāraṃ
Dukkhassaṅtaṃ karissati”.
Ý nghĩa:
Tuổi của Như Lai đã già rồi
Mạng sống của Như Lai còn ít,
Như Lai sẽ vĩnh biệt các con
Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn,
Nơi nương nhờ an toàn của mình.
Này chư Tỳ-khưu, thật đáng thương!
Các con là người không dể duôi
Có giới hạnh trong sạch đầy đủ
Luôn có chánh niệm và tỉnh giác,
Có định tâm, tư duy đúng đắn
Theo dõi giữ gìn tâm của mình.
Người nào sống trong pháp luật này
Không dể duôi, luôn có chánh niệm
Thực hành pháp tận cùng khổ sinh,
Người ấy diệt tử sinh luân hồi.
“Iti imāni caturāsitidhamakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāni, anusāsāmi; mayi parinibbute imāni caturāsitidhamakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti…”.
“Như vậy, 84.000 pháp môn này vẫn tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con; khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 pháp môn ấy sẽ là “Tôn sư” giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con…”.
Tuy Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm rồi, song giáo pháp của Ngài vẫn còn được giữ gìn duy trì đầy đủ trọn vẹn 84.000 pháp môn cho đến ngày nay.
Muốn được gần gũi thân cận với Đức Phật, mỗi người chúng ta cố gắng tinh tấn học pháp học Phật giáo và hành pháp hành Phật giáo; tùy theo khả năng của mỗi người, để cho Phật giáo được duy trì ở trong tâm. Những người nào có Phật giáo ở trong tâm, thì những người ấy có được nương nhờ nơi Đức Phật, nương nhờ nơi Đức Pháp, nương nhờ nơi Đức Tăng, được nương nhờ nơi Tam Bảo cao thượng, để cho họ có thể trở nên con người cao thượng và để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho chính họ trong kiếp hiện tại lẫn những kiếp vị lai; đặc biệt còn làm duyên lành trên con đường dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài; đồng thời giữ gìn duy trì Phật giáo được trường tồn trên thế gian, đến hết tuổi thọ Phật giáo 5.000 năm, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.