Tuần Tự 45 Hạ Của Đức-Phật
Tóm lược những điểm đặc biệt mỗi hạ của Đức-Phật: 1- Hạ đầu tiên: Sau khi thuyết bài kinh Chuyển-Pháp-Luân (Dhammacakkappavattanasutta) lần đầu tiên vào ngày rằm tháng 6, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña là bậc Thánh Thanh- văn đệ-tử cũng là vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Ngay khi ấy, Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn xuất hiện đầu tiên trên thế gian.
Ngày 16 tháng 6, ngày bắt đầu vào 4 tháng mùa mưa, Đức-Phật Gotama cùng với nhóm 5 tỳ-khưu an cư nhập hạ thứ nhất tại vườn phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī suốt 3 tháng, cho đến ngày 16 tháng 9 mới mãn hạ.
Vào những ngày đầu an cư nhập hạ từ ngày 16 tháng 6 cho đến ngày 19 tháng 6, theo tuần tự mỗi ngày:
– Ngày 16 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Vappa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi: “Ehi Bhikkhu.”
Cũng như vậy, ngày 17 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Bhaddiya trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
– Ngày 18 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Mahānāma trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
– Ngày 19 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Assaji chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
Đức-Phật đều cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi: “Ehi Bhikkhu”
– Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, tất cả đều chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Như vậy, 5 vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama đầu tiên xuất hiện trên cõi người, trong những ngày đầu mùa hạ.
Sau đó, Đức-Phật thuyết pháp tế độ công-tử Yasa cùng với 54 người bạn của công-tử đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi xuất gia trở thành tỳ-khưu, thêm 55 vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật và 60 vị Thánh A-ra-hán, mỗi Vị đi một con đường, để thuyết pháp tế độ chúng- sinh có duyên lành nên tế độ.
2- Hạ thứ nhì: Đức-Phật cùng với 20.000 chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
3-4 Hạ thứ ba và thứ tư: Đức-Phật ngự du hành khắp mọi nơi để thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ. Đến mùa mưa Đức-Phật trở lại an cư nhập hạ thứ ba và thứ tư cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha.
5- Hạ thứ năm: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.
Khi ấy, bà Mahāpajāpatigotamī cùng 500 người nữ dòng Sakya tự cạo đầu mặc y giống như bậc xuất-gia, đi chân không từ kinh-thành Kapilavatthu đến kinh-thành Vesālī, đứng khóc trước cổng giảng đường Kuṭāgāra vì tủi thân do Đức-Phật chưa cho phép người nữ xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Ngài Trưởng-lão Ānanda gặp bá-mẫu Mahāpajāpati- gotamī mới hiểu rõ ý nguyện của bà, nên vào hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin Ngài cho phép người nữ được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
Nếu nhũ-mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận 8 trọng pháp (garudhamma), thì đó là sự xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni của nhũ-mẫu.
Ngài Trưởng-lão Ānanda trở ra thưa lại cho bá mẫu Mahāpajāpatigotamī rõ 8 trọng-pháp ấy. Bà vô cùng hoan hỷ chấp thuận 8 trọng-pháp ấy và nghiêm chỉnh thực-hành đầy đủ trọn vẹn cho đến suốt đời.
Đó là sự xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni của bà Mahāpajāpatigotamī, còn 500 người nữ dòng Sakya xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni lần đầu tiên do tỳ-khưu- Tăng hành-tăng-sự theo cách tụng ñatticatutthakam- mavācā (từ đó về sau, xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni theo cách Aṭṭhavācīkūpasampadā do Tăng 2 phái: tỳ-khưu- ni-tăng trước và tỳ-khưu-tăng sau).
Như vậy, tỳ-khưu-ni-tăng xuất hiện trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama bắt đầu từ hạ thứ năm của Đức- Phật, tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.
6- Hạ thứ sáu: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại núi Makula trong đất nước Magadha.
Một sự việc xảy ra, ông phú hộ Rājagaha có một gốc cây trầm đỏ rất quý giá, ông cho thợ tiện một cái bát rồi treo trên một cây cao và thông báo rằng:
“Trong đời này, nếu có vị nào là bậc Thánh A-ra-hán có thần thông thì xin vị ấy bay lên lấy cái bát trầm này, tôi sẽ phát sinh đức-tin nơi vị ấy.”
Sáu nhóm ngoại đạo thường tự cho mình là bậc A-ra- hán có nhiều thần thông, đều đến xin ông phú hộ dâng cái bát trầm ấy, nhưng ông phú hộ thưa rằng:
“Nếu Ngài là bậc A-ra-hán có thần thông thì xin Ngài bay lên lấy cái bát trầm xuống đây.”
Đã 6 ngày qua, không có một vị nào bay lên lấy cái bát trầm ấy được, nên dân chúng trong thành Rājagaha thầm nghĩ rằng:
Trong đời này không có bậc Thánh A-ra-hán chăng?
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna và Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja đi vào khất thực trong kinh-thành Rājagaha. Khi nghe tin như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bảo Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja bay lên lấy cái bát trầm, để đem lại đức-tin cho mọi người.
Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja hóa phép thần thông bay lên lấy cái bát trầm ấy, rồi bay 3 vòng quanh kinh-thành Rājagaha, rồi đáp nhẹ xuống ngôi nhà ông phú hộ. Ông phú hộ phát sinh đức-tin trong sạch, thỉnh Ngài Trưởng-lão vào lâu đài, ngồi trên chỗ cao quý, rồi đảnh lễ Ngài Trưởng-lão và đón nhận cái bát, cúng dường vật thực dâng lên Ngài Trưởng-lão.
Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja trở về chùa, có số đông dân chúng chưa được tận mắt nhìn thấy Ngài Trưởng-lão biểu diễn thần thông, nên họ kéo nhau đến tìm Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài Trưởng-lão biểu diễn thần thông cho họ xem.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn biết sự việc xảy ra, nên hội họp chư tỳ-khưu-Tăng lại, rồi Đức-Thế-Tôn quở trách Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja rằng:
– Này Piṇḍolabhāradvāja! Chỉ có cái bát trầm này mà con biểu diễn thần-thông cho người tại gia xem. Đó không phải là phận sự của Sa-môn, không làm phát sinh đức-tin đối với người chưa có đức-tin.
Đó là nguyên nhân đầu tiên, Đức-Phật chế định cấm tỳ-khưu không được biểu diễn phép thần-thông cho người tại gia xem. Tỳ-khưu nào biểu diễn phép thần thông, tỳ-khưu ấy phạm giới dukkaṭa (hành không tốt).
Sau đó, Đức-Phật truyền dạy đập bể cái bát trầm ra từng mảnh nhỏ, tán mịn làm thuốc nhỏ mắt cho tỳ-khưu đau mắt.
7- Hạ thứ bảy: Đức-Phật ngự lên cung trời cõi Tam- thập-tam-thiên, để an cư nhập hạ suốt 3 tháng(1) trong mùa mưa, thuyết giảng Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi- Diệu-Pháp) gồm có 7 bộ lớn: Bộ Dhammasaṅgaṇī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhatukathā, bộ Puggalapaññatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Paṭṭhāna, để tế độ Phật- Mẫu (kiếp hiện-tại là một vị thiên-nam Santussita từ cõi trời Đâu-suất-đà-thiên hiện xuống).
Vị thiên-nam Santussita chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, cùng với 800 ngàn triệu (800 tỷ) chư-thiên, phạm-thiên trở thành bậc Thánh thấp hoặc cao tùy theo ba-la-mật của mỗi vị.
Vào ngày 16 tháng 9, Đức-Phật từ cõi trời Tam-thập- Tam-thiên trở về cõi người, tại cổng thành xứ Saṅkassa, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, chư tỳ-khưu-ni-Tăng, cận- sự-nam, cận-sự-nữ đông đảo đón rước Đức-Phật.
8- Hạ thứ tám: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa trong khu rừng Bhesakaḷavana vùng Bhaggajanapada, để tế độ dân chúng thành Susumāragira.
9- Hạ thứ chín: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Ghositārāma gần kinh-thành Kosambi.
10- Hạ thứ mười: Hai nhóm tỳ-khưu xứ Kosambi cãi cọ nhau, Đức-Phật khuyên giải nhưng họ không chịu nghe lời, nên Đức-Phật ngự vào khu rừng Pālileyyaka an cư nhập hạ một mình, suốt 3 tháng mùa mưa.
Khu rừng Pālileyyaka ở khoảng giữa kinh-thành Kosambi và kinh-thành Sāvatthi.
11- Hạ thứ mười một: Đức-Phật ngự đến tỉnh lỵ Dakkhiṇagiri cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi an cư nhập hạ tại ngôi chùa Dakkhiṇagiri, gần xóm nhà Bà- la-môn Ekanāḷa, để tế độ ông Bà-la-môn Kasibhāradvāja xuất gia trở thành tỳ-khưu, rồi tỳ-khưu Kasibhāradvāja thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
12- Hạ thứ mười hai: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bà-la-môn Verañjā.
Trong thời ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho nên, chư tỳ-khưu đi khất thực không được vật thực.
Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư tỳ-khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước-thiện bố-thí cúng dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu.
Đặc biệt dâng cúng dường Ngài Trưởng-lão Ānanda những món bơ, mật ong, đường, … để Ngài Trưởng-lão Ānanda làm vật thực dâng cúng lên Đức-Phật.
Trong 3 tháng an cư nhập hạ ấy, Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ (Đó là một trong những quả ác-nghiệp cũ của Đức-Phật còn dư sót chút đỉnh, và cũng có ảnh hưởng đến chư tỳ-khưu gần gũi với Đức-Phật).
13- Hạ thứ mười ba: Đức-Phật an cư nhập hạ tại một ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu, trong xứ Cāliya.
Từ hạ đầu tiên cho đến hạ thứ mười ba này, Đức-Phật chưa có một vị tỳ-khưu nào là thị giả thường trực chăm sóc phục vụ Đức-Phật, khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác thay đổi nhau phục vụ Đức-Phật.
Trong mùa hạ này, vị tỳ-khưu Meghiya là thị giả của Đức-Phật. Một hôm, vị tỳ-khưu đi khất thực trong xóm Jantu, nhìn thấy ngoài vườn xoài bên bờ sông, một cảnh đẹp thiên nhiên, yên tĩnh, đáng hài lòng, nên tỳ-khưu Meghiya muốn đến nơi đó để thực-hành pháp-hành thiền.
Khi trở về, tỳ-khưu Meghiya vào hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn, xin Đức-Thế-Tôn cho phép đi đến nơi đó để thực-hành thiền theo ý muốn của mình.
Đức-Phật xem xét thấy chưa hợp thời, nên dạy rằng:
– Này Meghiya! Con nên chờ có một vị tỳ-khưu khác đến thay thế, rồi con hãy đi.
Đức-Phật truyền bảo như vậy, tỳ-khưu Meghiya vẫn năn nỉ xin đi, Đức-Phật khuyên dạy 3 lần mà tỳ-khưu Meghiya không chịu nghe lời, biết ngăn không được, nên Đức-Phật đành phải cho phép.
Tỳ-khưu Meghiya đảnh lễ Đức-Phật rồi ra đi, để Đức- Phật ở lại một mình trên núi Cāliya.
Khi tỳ-khưu Meghiya đến vườn xoài ngồi thực-hành pháp-hành thiền, thì tâm tà-tư-duy phát sinh làm cho tâm nóng nảy, bực bội nên không thể thực-hành pháp-hành thiền-định, cũng không thể thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, nên tỳ-khưu Meghiya trở về hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, người xuất-gia với đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, khi tà-tư-duy, bất-thiện-pháp phát sinh làm trở ngại sự thực-hành pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có những pháp nào để diệt tà-tư-duy, để hỗ trợ cho pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ? Bạch Ngài.
Đức-Phật dạy rằng:
– Này Meghiya! Hành-giả chưa diệt được phiền-não trầm-luân thì cần phải có đủ 5 pháp:
1- Có bạn lành, bạn tốt.
2- Là người có giới-hạnh trong sạch, giữ gìn cẩn trọng trong giới-luật, giữ gìn thân và khẩu trong sạch thanh- tịnh, đi lại nơi an toàn cho phạm-hạnh, thường thấy tai họa lớn trong lỗi nhỏ.
3- Là người biết tri túc trong 4 thứ vật dụng hằng ngày. 4- Có tâm tinh-tấn không ngừng diệt ác-pháp, làm cho thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.
5- Có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự-sinh, sự-diệt của danh-pháp, sắc-pháp dẫn đến sự diệt phiền-não trầm luân, giải thoát khổ.
Đó là 5 pháp diệt tà-tư-duy, để hỗ trợ cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Tỳ-khưu Meghiya vâng lời dạy của Đức-Phật. Về sau không lâu, tỳ-khưu Meghiya thực-hành pháp-hành thiền- tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
14- Hạ thứ mười bốn: Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh-thành Sāvatthi. Trong mùa hạ này, Sa-di Rāhula tròn đủ 20 tuổi được nâng lên bậc tỳ-khưu, do Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta là Thầy tế-độ (upajjhāya) và Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là Thầy tụng tuyên- ngôn và thành-sự-ngôn (ācariya).
Đức-Phật biết rõ tỳ-khưu Rāhula đã có đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên Đức-Phật dự định thuyết pháp tế độ tỳ-khưu Rāhula diệt tận được mọi phiền-não trầm luân.
Hôm ấy, sau khi ngự đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthi trở về, Đức-Phật truyền dạy tỳ-khưu Rāhula đem tọa cụ (tấm vải lót ngồi) đi vào rừng ở phía Nam kinh-thành Sāvatthi để nghỉ trưa.
Vô số chư-thiên, phạm-thiên cùng đi theo tỳ-khưu Rāhula, do biết rằng Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ tỳ- khưu Rāhula diệt tận mọi phiền-não trầm-luân.
Đức-Phật thuyết dạy bài kinh Cūḷarāhulovādasutta: Kinh dạy tỳ-khưu Rāhula trẻ. Sau khi lắng nghe xong bài kinh, tỳ-khưu Rāhula chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm- luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông.
Đồng thời trong khi ấy, vô số chư-thiên, phạm-thiên cũng trở thành Thánh bậc cao hoặc bậc thấp tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị chư-thiên, phạm-thiên.
15- Hạ thứ mười lăm: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh-thành Kapilavatthu. Đức-vua Mahānāma thuộc dòng họ Sakya đã xây cất chỗ ở để dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.
Đức-Phật thuyết pháp giảng dạy về quả báu cao quý của phước-thiện bố-thí cúng dường chỗ ở đến chư tỳ- khưu-Tăng.
16- Hạ thứ mười sáu: Đức-Phật tế độ được dạ-xoa Āḷavaka rất hung dữ hơn cả Ác-ma-thiên. Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Sau khi tế độ dạ-xoa Āḷavaka xong, Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi tháp Aggāḷava trong xứ Āḷavī, để tế độ Đức-vua Āḷavaka cùng dân chúng trong xứ.
17- Hạ thứ mười bảy: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha.
18-19- Hạ thứ mười tám và mười chín: Đức-Phật ngự đi thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ khắp mọi nơi. Khi gần đến mùa mưa, Đức-Phật ngự đến ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu trong xứ Cāliya an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa.
20- Hạ thứ hai mươi: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha.
Từ hạ đầu tiên đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức-Phật chưa có một vị tỳ-khưu nào làm thị giả thường trực để lo chăm sóc phục vụ Đức-Phật; khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác: Các vị tỳ-khưu như tỳ-khưu Nāgasamāla, tỳ-khưu Nāgita, tỳ-khưu Upavāṇa, tỳ-khưu Sunakkhatta, tỳ-khưu Cunda, tỳ-khưu Sāgata, tỳ-khưu Meghiya, … thay đổi nhau làm phận sự phục vụ Đức- Phật, chưa có một vị tỳ-khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc Đức-Phật.
Đôi khi, Đức-Phật ngự đi khất thực một đường, vị tỳ- khưu ôm bát theo Đức-Phật lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Đức-Phật xuống đất rồi đi theo ý của mình, hoặc đôi khi có vị tỳ-khưu đang phục vụ Đức- Phật, thì xin đi thực-hành pháp-hành thiền một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức-Phật, mà không có vị tỳ-khưu nào lo chăm sóc phục vụ cho Đức-Phật.
Trong mùa hạ này, một hôm, Đức-Phật đang ngự tại cốc Gandhakuṭi, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi tụ hội xung quanh. Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Nay Như-Lai đã lớn tuổi rồi, các tỳ-khưu đến chăm sóc, phục vụ Như-Lai, đôi khi Như-Lai đi khất thực một đường, vị tỳ-khưu ấy mang bát theo Như-Lai lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Như-Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình, …
– Này chư tỳ-khưu! Các con nên chọn một vị tỳ-khưu làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Như-Lai.
Khi lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Sāriputta đảnh lễ Đức-Phật chắp hai tay bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin được làm thị giả thường trực hằng ngày, hằng đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn không chấp thuận theo lời xin của Ngài Trưởng-lão Sāriputta. Tiếp đến Ngài Trưởng-lão Mahā- moggallāna bạch xin, Đức-Thế-Tôn cũng không chấp thuận. Theo tuần tự các chư Đại-Thanh-văn đều xin, Đức-Thế-Tôn cũng không chấp thuận một vị nào cả.
Ngài Trưởng-Lão Ānanda Làm Thị Giả Thường Trực
Duy chỉ còn Ngài Trưởng-lão Ānanda đang ngồi im lặng, chư Đại-đức tỳ-khưu động viên khuyến khích Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế- Tôn, chắp hai tay bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin Đức-Thế-Tôn tám đặc ân, nếu Đức-Thế-Tôn ban cho con đủ tám đặc ân ấy thì con sẽ xin làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.
4 Đặc Ân Khước Từ
1- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con tấm y tốt mà Ngài có.
2- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con vật thực ngon lành mà Ngài có.
3- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con được ở chung với Ngài trong cốc Gandhakuṭi.
4- Kính xin Đức-Thế-Tôn không cho con đi theo Ngài đến nhà thí chủ mà họ thỉnh mời Ngài.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
– Này Ānanda! Con xét thấy bất lợi như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khước từ như vậy?
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con muốn tránh những lời dèm pha của người khác cho rằng:
“Con xin làm thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn để mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức-Thế-Tôn, được đi theo Đức-Thế-Tôn đến nhà thí chủ thỉnh mời Ngài.”
Đức-Thế-Tôn chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của Ngài Trưởng-lão Ānanda.
4 Đặc-Ân Khẩn Khoản
1- Kính xin Đức-Thế-Tôn ngự đến nơi mà con đã nhận lời thỉnh mời.
2- Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con dẫn các người từ các phương xa đến hầu Ngài.
3- Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con được vào hầu Ngài, để hỏi những pháp mà con chưa hiểu biết.
4- Đức-Thế-Tôn thuyết pháp nơi nào, khi con vắng mặt, kính xin Ngài thuyết lại pháp ấy cho con nghe.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
– Này Ānanda! Con xét thấy những điều lợi ích như thế nào, mà con xin bốn đặc-ân khẩn khoản như vậy?
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
* Đặc-ân thứ nhất: Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo đến hầu thỉnh Đức-Thế-Tôn, mà không gặp được Ngài, thì cho phép con nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức-Thế-Tôn không ngự đi đến nơi đó thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Con là người thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn, vậy mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho họ được.”
* Đặc-ân thứ nhì: Những người từ các phương xa đến hầu Đức-Thế-Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn để nghe pháp thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, nghe Ngài thuyết pháp, nhưng vị tỳ-khưu thị giả của Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho chúng ta được có cơ hội ấy.”
Như vậy, họ sẽ giảm đức-tin nơi Tam-Bảo.
* Đặc-ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức-Thế- Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin phép hỏi lại pháp ấy, Đức-Thế-Tôn giảng giải cho con được hiểu rõ, để con được thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ của con.
* Đặc-ân thứ tư: Có người hỏi con rằng:
“Bài kinh này, pháp này, tích tiền-kiếp này, … Đức- Thế-Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?”
Nếu con trả lời với họ rằng: “Tôi không biết” thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Ngài Trưởng-lão Ānanda là thị giả của Đức-Thế- Tôn, vậy mà bài kinh ấy, pháp ấy, tích tiền-kiếp ấy, … cũng không biết.”
Cho nên, kính xin Đức-Thế-Tôn thuyết lại những pháp ấy cho con, để con trả lời cho họ hiểu rõ.
Sau khi nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda giải thích sự lợi ích của mỗi đặc-ân, nên Đức-Phật chấp thuận đủ tám đặc-ân của Ngài Trưởng-lão Ānanda.
Bắt đầu từ thời gian ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn, cho đến lúc Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn.
Sở dĩ, Ngài Trưởng-lão Ānanda được địa vị thị giả thường trực của Đức-Phật Gotama, là vì tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức-Phật. Lời phát nguyện trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã được Đức-Phật Padumuttara thời quá-khứ thọ ký và Ngài Trưởng-lão cũng đã thực-hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để thành-tựu ý nguyện ấy.
21- 44- Hạ thứ hai mươi mốt đến hạ thứ bốn mươi bốn
45 hạ của Đức-Phật chia ra 2 thời-kỳ:
* Thời-kỳ đầu: Kể từ hạ đầu tiên đến hạ thứ 20, mỗi hạ Đức-Phật an cư nhập hạ nơi nào, tế độ cho chúng- sinh nào được ghi chép lại rõ ràng.
* Thời-kỳ cuối: Kể từ hạ thứ 21 đến hạ thứ 44, Đức- Phật an cư nhập hạ một trong hai ngôi chùa. Khi thì Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, khi thì tại ngôi chùa Pubbārāma gần kinh-thành Sāvatthi.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật thường ngự đi thuyết pháp tế độ những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ dù gần, dù xa trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới hoặc cõi trời sắc-giới.
Khi đến gần mùa mưa, Đức-Phật trở lại kinh-thành Sāvatthi, an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana hoặc tại ngôi chùa Pubbārāma, bởi vì, Đức-vua Pasenadi Kosala ở kinh-thành Sāvatthi, là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có tâm tôn kính Đức-Phật, Đức-Pháp, chư tỳ- khưu-Tăng. Đặc biệt, có hai đại-thí-chủ là ông phú-hộ Anāthapiṇḍika và bà đại-thí-chủ Visākhā, trong nhà của hai đại-thí-chủ này, hằng ngày luôn có sắp đặt sẵn 500 chỗ ngồi để đón rước chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến khất thực.
Và phần đông dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi là những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hoan hỷ trong việc bố thí cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư tỳ-khưu-Tăng.
Do đó, khi Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana hoặc tại ngôi chùa Pubbārāma, có số đông chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng cũng an cư nhập hạ tại một trong hai ngôi chùa này và các nơi gần kinh-thành Sāvatthi, để chư tỳ-khưu có được nhiều điều thuận lợi, nhất là bốn thứ vật dụng, trong suốt mùa an cư nhập hạ, để cho chư tỳ-khưu được thuận lợi thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển tốt.
45- Hạ thứ bốn mươi lăm: Hạ cuối cùng, Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi làng nhỏ Veḷuvagāma, gần kinh- thành Vesālī, Đức-Phật cho phép chư Đại-đức tỳ-khưu nhập hạ quanh làng gần Đức-Phật, để cho tiện việc đến tụ hội nghe lời giáo huấn của Ngài. Bởi vì, Ngài biết rõ rằng chỉ còn khoảng 10 tháng nữa, Ngài sẽ tịch diệt Niết-bàn.
Trong mùa an cư nhập hạ này, Đức-Phật lâm bệnh trầm trọng, tưởng chừng như sắp tịch diệt Niết-bàn, nhưng Đức-Phật suy nghĩ rằng:
“Như-Lai chưa truyền dạy cho thị giả Ānanda, cùng chư tỳ-khưu Tăng biết, mà tịch diệt Niết-bàn đó là điều không nên”.
Do đó, Đức-Phật cố nhẫn nại chịu đựng thọ khổ, rồi nhập A-ra-hán-quả. Nhờ vậy, bệnh tình của Đức-Phật được thuyên giảm.
Sau khi khỏi bệnh được không lâu, Đức-Thế-Tôn ngự ra khỏi cốc đến ngồi chỗ đã trải sẵn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhìn thấy Đức-Thế-Tôn khỏi bệnh, con vui mừng hoan hỷ quá!
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi con thấy Đức-Thế-Tôn lâm bệnh trầm trọng, con có cảm giác toàn thân nặng nề, tâm con tăm tối, mờ mịt không còn biết rõ phương hướng, pháp-hành tứ niệm-xứ cũng không còn hiện rõ trong tâm con, bởi bệnh tình trầm trọng của Đức-Thế- Tôn, nhưng có một điều mà con tự an ủi rằng:
“Đức-Thế-Tôn chưa truyền dạy lời di chúc cuối cùng đến chư tỳ-khưu-Tăng, thì có lẽ Đức-Thế-Tôn chưa tịch diệt Niết-bàn.”
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn dạy rằng:
– Này Ānanda! Chư tỳ-khưu còn hy vọng gì nơi Như- Lai nữa? Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng không hề phân biệt người thân bên trong, kẻ sơ bên ngoài, Như-Lai không giống như các vị thầy khác, giấu các yếu pháp để chờ đến lúc trước khi lâm chung mới truyền lại cho người học trò tín cẩn.
– Này Ānanda! Vị thầy nào nghĩ rằng:
“Ta là người lãnh đạo nhóm chư tỳ-khưu-Tăng, và nhóm chư tỳ-khưu-Tăng nương nhờ nơi ta.”
Vị thầy ấy mới có lời di chúc cuối cùng đến nhóm chư tỳ-khưu-Tăng ấy.
– Này Ānanda! Như-Lai không nghĩ rằng:
“Như-Lai là người lãnh đạo nhóm chư tỳ-khưu-Tăng, và nhóm chư tỳ-khưu-Tăng nương nhờ nơi Như-Lai.”
Như vậy, sao Như-Lai lại có lời di chúc cuối cùng đến chư tỳ-khưu-Tăng.
– Này Ānanda! Bây giờ Như-Lai đã đến thời lão niên, tuổi đã cao, đã 80 tuổi(1) rồi! Ví như chiếc xe cũ, sử dụngvđược là phải nhờ sửa chữa như thế nào, thì sắc thân của Như-Lai cũng như thế ấy, luôn luôn cần được sửa chữa bằng cách nhập A-ra-hán Thánh-quả.
– Này Ānanda! Khi nào Như-Lai nhập A-ra-hán Thánh- quả có đối tượng Vô-hiện-tượng Niết-bàn, diệt được các pháp trong tam-giới, hưởng pháp vị an-lạc Niết-bàn siêu-tam-giới, khi ấy Như-Lai mới thật sự được an-lạc.
* Cho nên, các con nên sống có ta(1) làm hòn đảo (trong biển khổ), có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là có chánh-pháp làm hòn đảo, có chánh-pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.
– Này Ānanda! Vì vậy, hiện-tại Như-Lai còn tại thế, cũng như trong thời vị-lai, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu cũng là người sống có ta làm hòn đảo, có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là tỳ-khưu sống có chánh- pháp làm hòn đảo, có chánh-pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.
Tỳ-khưu ấy thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ, sẽ là người cao thượng.
Đức-Thế-Tôn an cư nhập hạ tại nơi đây suốt 3 tháng, đây là hạ cuối cùng của Đức-Phật.