KINH VÔ NGÃ TƯỚNG (ANATTALAKKHANASUTTA)
Đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên bài kinh Chuyển Pháp Luân để tế độ nhóm 5 vị Tỳ-khưu, Ngài Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, là vị Thánh Nhân đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama vào ngày rằm tháng 6 (âm lịch), tiếp theo sau, mỗi ngày một vị chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, đến ngày 19 tháng 6, nhóm 5 vị Tỳ-khưu đều đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta) để tế độ nhóm 5 vị Tỳ-khưu chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.
Phần I: Ý nghĩa kệ khai kinh Vô Ngã Tướng
Dhammacakkaṃ pavattetvā…
Khu rừng yên tịnh nơi phóng sinh nai
Tên gọi là I-si-pa-ta-na
Gần kinh thành Bà-rà-na-si ấy,
Ngày rằm tháng sáu, trăng rằm sáng tỏ
Đức Phật đã thuyết, kinh Chuyển Pháp Luân
Tỳ-khưu chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu
Tuần tự theo mỗi ngày, thêm mỗi vị.
Nhóm năm Tỳ-khưu thành Thánh Nhập Lưu,
Đến ngày mồng năm (20/6AL) tuần trăng hạ huyền
Đức Phật thuyết pháp kinh Vô Ngã Tướng
Tế độ Tỳ-khưu, thành A-ra-hán.
Này chư thiện trí, xin hãy lắng nghe
Chúng tôi tụng kinh, Vô Ngã Tướng ấy.
Phần II: Ý nghĩa của bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta)
Evaṃ me sutaṃ…
Lời của Ngài Đại đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa.
– Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa khả kính.
Con là Ānanda được nghe bài kinh Vô Ngã Tướng từ Đức Thế Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, trước kia Đức Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại nơi đây, Đức Thế Tôn bèn gọi nhóm 5 Tỳ-khưu rằng:
– Này chư Tỳ-khưu.
Chư Tỳ-khưu đáp lời Đức Thế Tôn:
– Dạ, kính bạch Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Vô Ngã Tướng như sau:
Ngũ uẩn là vô ngã
1- Sắc uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta (ngã), thì sắc uẩn này không bị biến đổi, không bệnh hoạn; và các con có thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng:
“Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!
Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì sắc uẩn này là vô ngã, do đó, sắc uẩn này phải bị biến đổi, bệnh hoạn.Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng:
“Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này!
Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”.
(sắc uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của mình).
2- Thọ uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thọ uẩn này là ta (ngã), thì thọ uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng:
“Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!
Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thọ uẩn này là vô ngã; do đo, thọ uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng:
“Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này!
Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”.
(thọ uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
3- Tưởng uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu tưởng uẩn này là ta (ngã), thì tưởng uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng:
“Tưởng uẩn của tôi ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!
Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì tưởng uẩn này là vô ngã, do đó, tưởng uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng:
“Tưởng uẩn của tôi được ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này!
Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”.
(tưởng uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
4- Hành uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu hành uẩn này là ta (ngã), thì hành uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng:
“Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!
Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật bởi vì hành uẩn này là vô ngã, do đó, hành uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng:
“Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này!
Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”.
(hành uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
5- Thức uẩn là vô ngã
– Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai).
Này chư Tỳ-khưu, thật vậy, nếu thức uẩn này là ta (ngã), thì thức uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng:
“Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!
Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.
Này chư Tỳ-khưu, sự thật, bởi vì thức uẩn này là vô ngã, do đó, thức uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng:
“Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này!
Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”.
(thức uẩn hoàn toàn tùy thuộc nhân duyên danh pháp, sắc pháp, không tùy thuộc theo ý muốn của ai).
Ngũ uẩn có ba trạng thái chung
1) Sắc uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Sắc uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào là vô thường, vậy sắc uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên sắc uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, sắc uẩn nào vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi sắc uẩn ấy rằng:
Sắc uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Sắc uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Sắc uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ sắc uẩn ấy như vậy.
2) Thọ uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Thọ uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, vậy thọ uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thọ uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, thọ uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thọ uẩn ấy rằng:
Thọ uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Thọ uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Thọ uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thọ uẩn ấy như vậy.
3) Tưởng uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Tưởng uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, vậy tưởng uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên tưởng uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi tưởng uẩn ấy rằng:
Tưởng uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Tưởng uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ tưởng uẩn ấy như vậy.
4) Hành uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Hành uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, vậy hành uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên hành uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, hành uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi hành uẩn ấy rằng:
Hành uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Hành uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Hành uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ hành uẩn ấy như vậy.
5) Thức uẩn có 3 trạng thái chung
– Này chư Tỳ-khưu, các con nhận thức thế nào về điều này?
Thức uẩn này là thường hay vô thường?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn này sinh rồi diệt là vô thường.
– Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, vậy thức uẩn ấy là khổ hay lạc?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thức uẩn ấy là khổ.
– Này chư Tỳ-khưu, thức uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thức uẩn ấy rằng:
Thức uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái)
Thức uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn)
Thức uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không?
– Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thức uẩn ấy như vậy.
Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ ngũ uẩn:
1) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi sắc uẩn
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những sắc uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc sắc uẩn bên trong của mình, hoặc sắc uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc sắc uẩn thô, hoặc sắc uẩn vi tế, hoặc sắc uẩn thấp hèn, hoặc sắc uẩn cao quý, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả sắc uẩn ấy rằng:
Sắc uẩn ấy không phải của ta.
Sắc uẩn ấy không phải ta.
Sắc uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
2) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thọ uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những thọ uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thọ uẩn bên trong của mình, hoặc thọ uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thọ uẩn thô, hoặc thọ uẩn vi tế, hoặc thọ uẩn thấp hèn, hoặc thọ uẩn cao quý, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thọ uẩn ấy rằng:
Thọ uẩn ấy không phải của ta.
Thọ uẩn ấy không phải ta.
Thọ uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
3) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi tưởng uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những tưởng uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc tưởng uẩn bên trong của mình, hoặc tưởng uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc tưởng uẩn thô, hoặc tưởng uẩn vi tế, hoặc tưởng uẩn thấp hèn, hoặc tưởng uẩn cao quý, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả tưởng uẩn ấy rằng:
Tưởng uẩn ấy không phải của ta.
Tưởng uẩn ấy không phải ta.
Tưởng uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
4) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi hành uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những hành uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc hành uẩn bên trong của mình, hoặc hành uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc hành uẩn thô, hoặc hành uẩn vi tế, hoặc hành uẩn thấp hèn, hoặc hành uẩn cao quý, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả hành uẩn ấy rằng:
Hành uẩn ấy không phải của ta.
Hành uẩn ấy không phải ta.
Hành uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
5) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thức uẩn.
Vì vậy, này chư Tỳ-khưu, những thức uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thức uẩn bên trong của mình, hoặc thức uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thức uẩn thô, hoặc thức uẩn vi tế, hoặc thức uẩn thấp hèn, hoặc thức uẩn cao quý, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thức uẩn ấy rằng:
Thức uẩn ấy không phải của ta.
Thức uẩn ấy không phải ta.
Thức uẩn ấy không phải tự ngã của ta.
Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn.
Này chư Tỳ-khưu, thực tánh của ngũ uẩn như vậy, bậc Thánh Thanh Văn có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ ngũ uẩn đúng theo thật tánh, nên phát sinh trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ uẩn, nhàm chán trong tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn.
Khi trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, nên tâm xả ly tham ái, do tâm xả ly tham ái nên chứng đắc Arahán Thánh Đạo, giải thoát khỏi mọi tham ái phiền não.
Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả đã giải thoát hoàn toàn mọi phiền não trầm luân”.
Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Không còn phải tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo nữa, mọi phận sự của Tứ Thánh Đế đã hoàn thành xong, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thiện. Kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa”.
Nhóm 5 Tỳ-khưu thành bậc Thánh Arahán
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Vô Ngã Tướng này xong, nhóm 5 Tỳ-khưu vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn.
Trong khi Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này, nhóm 5 Tỳ-khưu tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Arahán Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, không còn chấp thủ trong ngũ uẩn này nữa.
(xong bài kinh Vô Ngã Tướng).
* Giải thích danh từ trong bài kinh Vô Ngã Tướng
* Ý nghĩa danh từ Anattā
Định nghĩa danh từ anattā như sau:
Na attā anattā, natthi attā etassa khandhapañcakassā ti và anattā.
Tất cả các pháp không phải ta, không phải của ta là pháp vô ngã, hay ngũ uẩn ấy không phải ta, không phải của ta cũng là pháp vô ngã.
Ý nghĩa anattā: Vô ngã ở đây là phủ định attā: Ngã, ngã sở (theo quan niệm tà kiến).
Trong bộ Ṭīkā giải thích danh từ anattā: Vô ngã có 4 ý nghĩa sau:
Avasavattanaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai.
Asāmikaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là vô chủ, không có ai làm chủ.
Suññataṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta.
Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là phủ nhận cái ngã, cái ta, cái đại ngã.
Anattā và attā trong bài kinh Anattalakkhaṇasutta (Vô Ngã Tướng) có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại nhau.
Anattā: Vô ngã, ngũ uẩn này không chiều theo ý muốn của ai.
Attā: Ngã, ta muốn ngũ uẩn được như thế này, không muốn ngũ uẩn như thế khác v.v… chiều theo ý muốn của ta. Nhưng thật tánh của ngũ uẩn này là vô ngã không chiều theo ý muốn của ai.
Attā: Nghĩa là ta, ngã do tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hoặc danh pháp, sắc pháp cho là ta (ngã), tự ngã; ngã mạn theo chấp ta; tham ái theo chấp của ta.
Ngoài ra, attā còn có ý nghĩa khác.
* Ý nghĩa danh từ attā.
Theo trong bộ tự điển Abhidhāna: tự điển từ ngữ Pāḷi câu kệ 861 danh từ attā có ý nghĩa rằng:
“Citte kāye sabhāve ca, so attā paramattani.”
Danh từ attā có 4 ý nghĩa: tâm, thân, thực tánh pháp và Ngã tối thượng (đại ngã).
Giải thích:
1- Attā có ý nghĩa là citta: tâm.
Ví dụ:
Attasammāpaṇidhi: Đặt để tâm đúng trong thiện pháp, tâm mong muốn chân chính.
Attamicchāpaṇidhi: Đặt để tâm sai lầm trong ác pháp, tâm mong muốn sai lầm.
“Sabbe sattā bhavantu sukhitattā”.
“Cầu mong tất cả chúng sinh tâm thường được an lạc”.
“Attā hi kira duddamo”.
“Thật vậy, dạy được tâm mình là khó lắm!”
“Attānam damayanti panditā”.
“Chư bậc thiện trí rèn luyện, dạy tâm”…
Attā ở đây có ý nghĩa là tâm.
2- Attā có ý nghĩa là kāya: Thân thể.
Ví dụ:
Đức Phật ban hành những giới của Tỳ-khưu ni, trong đó có giới như:
“Yā pana bhikkhunī attānam vadhitvā vadhitvā rodheyya pācittiyam ”.
“Tỳ-khưu ni nào tự đấm vào thân mình rồi khóc, Tỳ-khưu ni ấy phạm āpatti pācittiya (ứng đối trị)”.
“Attā hi attano natthi,
Kuto puttā kuto dhanam?”.
“Chính thân này, còn không phải của ta…, thì thử hỏi con của ta, của cải của ta làm sao có được?…”
Attā ở đây có ý nghĩa là thân thể.
3- Attā có ý nghĩa là sabhāva: Thực tánh pháp.
Ví dụ:
“Attā hi attano nātho,
Ko hi nātho paro siyā”.
“Chính thiện pháp là nơi nương nhờ chân chánh của ta, ngoài thiện pháp ra, có ai là nơi nương nhờ của ta được?”
“Attadīpā bhikkhave, viharatha attasaranā anannasaranā”.
“Này chư Tỳ-khưu, các con nên sống, chính thiện pháp là hòn đảo, chính thiện pháp là nơi nương nhờ, không nên có nơi nương nhờ nào khác”…
Attā: Ta ở đây có nghĩa là thực tánh pháp. Đó là tam giới thiện pháp, Siêu tam giới thiện pháp, là nơi nương nhờ chân chính của ta.
4- Attā có ý nghĩa là Parama attā: Ngã Tối Thượng, Đại ngã, theo tà kiến của ngoại đạo.
Nhóm ngoại đạo có tà kiến cho rằng: “Tất cả vạn vật, vũ trụ này do Parama attā tạo ra, gọi là Ngã Tối Thượng, Đấng Tạo Hóa”.
Parama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo tà kiến của nhóm ngoại đạo này, ý nghĩa nghịch với anattā: Vô ngã trong giáo pháp của Đức Phật.
Như vậy, trong 4 ý nghĩa của attā, có 3 ý nghĩa là tâm, thân, thực tánh pháp thuộc về chánh kiến, còn Parama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo quan niệm của nhóm ngoại đạo thuộc về tà kiến mà thôi.
Attāditthi: Tà kiến chấp ngã, hoặc attānuditthi: Tà kiến theo chấp ngã là tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là ta, hoặc tà kiến thấy sai, chấp lầm từ danh pháp cho là ta là ngã, hoặc từ sắc pháp cho là ta là ngã, cũng ở trong ý nghĩa tà kiến này.
4 ý nghĩa attā:
– Attā nghĩa là tâm.
– Attā nghĩa là thân.
– Attā nghĩa là thực tánh pháp.
Cả 3 ý nghĩa attā này thuộc trong Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) là pháp có ý nghĩa chân thật, có chi pháp, có thức tánh rõ ràng, trí tuệ thấy đúng biết đúng thuộc về chánh kiến.
– Attā có nghĩa khác là ngã, ta… do tà kiến thấy sai, chấp lầm trong ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bên trong của mình cho là ta, là ngã và tà kiến thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v…
Đó là tà kiến chấp ngã (attadiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānudiṭṭhi) thông thường đối với hạng phàm nhân.
Tà kiến chấp ngã đặc biệt của các nhóm ngoại đạo cho là cái ngã tối thượng, đại ngã(parama attā) thường tồn bất diệt, chính cái ngã tối thượng này tạo thiên lập địa, tạo ra mọi chúng sinh muôn loài, muôn vật trong thế gian. Và tà kiến chấp ngã trong mỗi chúng sinh có cái sinh mạng tự ngã (jīva attā) có khả năng hành động nói năng, suy nghĩ, đi, đứng, ngồi nằm v.v… Đó chỉ là tà kiến thấy sai, chấp lầm, chấp ngã mà thôi.
Tất cả chúng sinh trong tam giới có 3 loài:
1- Chúng sinh có ngũ uẩn trong 11 cõi dục giới (4 cõi ác giới, 1 cõi người, 6 cõi trời dục giới) và 15 cõi sắc giới (trừ cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên).
2- Chúng sinh có tứ uẩn (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn) trong 4 cõi vô sắc giới.
3- Chúng sinh có nhất uẩn (sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên.
Chúng sinh có ngũ uẩn
Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Chúng sinh có ngũ uẩn như chúng sinh ở cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, loài người, chư thiên trong cõi dục giới và chư phạm thiên trong 15 cõi sắc giới.
– Sắc uẩn thuộc về phần thân.
– Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về phần tâm.
Ví dụ: Khi con người sống thì thân với tâm luôn luôn nương nhờ lẫn nhau. Phần thân hay sắc uẩn là riêng biệt, và phần tâm gồm có 4 uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn luôn luôn nương nhờ lẫn nhau và không bao giờ tách rời nhau, bởi vì mỗi tâm luôn luôn có một số tâm sở.
Trong mỗi tâm phát sinh, thì có một số tâm sở ít hoặc nhiều đồng sinh với tâm ấy, chính tâm ấy là thức uẩn và các tâm sở đồng sinh với tâm, như tâm sở thọ là thọ uẩn, tâm sở tưởng là tưởng uẩn, tâm sở còn lại là hành uẩn. Cho nên, trong mỗi tâm đều có 4 uẩn nương nhờ lẫn nhau, không tách rời nhau.
Nếu khi nào tâm tách rời khỏi thân, thì khi ấy gọi là người chết, thân trở thành tử thi.
Con người chưa phải là bậc Thánh Arahán, thì sau khi chết rồi, chắc chắn nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp sau thuộc loài chúng sinh nào, hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp của người ấy cho quả tái sinh. Do đó, thân người chết là xong kiếp người, không thể tái sinh kiếp sau được, mà chỉ có nghiệp của người ấy đã tạo trong kiếp hiện tại hoặc kiếp quá khứ, chính nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau mà thôi. Tất cả mọi chúng sinh khác cũng giống như vậy.
Không nên hiểu rằng: con người chết sẽ tái sinh làm chư thiên, hoặc súc sinh…, và cũng không nên hiểu rằng: “Chư thiên chết, rồi tái sinh làm người, hoặc một loài thú vật chết, rồi tái sinh làm người v.v…”.
Sự thật, mỗi kiếp chúng sinh nào đến khi chết rồi, chấm dứt kiếp chúng sinh ấy; phần thân không liên quan đến kiếp sau, mà chỉ có phần tâm liên quan đến kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai mà thôi.
Còn tái sinh kiếp sau, do năng lực của tham ái dẫn dắt tái sinh, và chính nghiệp của chúng sinh ấy trực tiếp cho quả tái sinh kiếp sau.
– Nếu nghiệp ác cho quả, thì sẽ tái sinh 1 trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.
– Nếu nghiệp thiện cho quả, thì được tái sinh một trong những cõi thiện giới: Làm người trong cõi người, làm chư thiên trong cõi trời dục giới, làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, vô sắc giới.
Cho nên, tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh không liên quan đến phần thân, chỉ liên quan đến phần tâm mà thôi.
Pháp ngũ uẩn
Uẩn (khandha) có nghĩa là “phần” gồm những phần có trạng thái giống nhau, liên kết vào với nhau.
Ví dụ: Con người có ngũ uẩn.
Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp thuộc phần thân.
Thọ uẩn đó là tâm sở thọ.
Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng.
Hành uẩn đó là 50 tâm sở nói chung (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng).
Thức uẩn đó là 89 hay 121 tâm nói chung, mỗi tâm là thức uẩn.
Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về phần tâm hay gọi là danh uẩn.
Giải thích:
1) Sắc uẩn
Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp như sau:
Sắc tứ đại: là 4 sắc pháp lớn rõ ràng.
Địa đại: chất đất có trạng thái cứng hoặc mềm.
Thủy đại: chất nước có trạng thái lỏng hoặc đông đặc.
Hỏa đại: chất lửa có trạng thái nóng hoặc lạnh.
Phong đại: chất gió trạng thái lưu động, phồng hoặc xẹp.
Sắc tứ đại này là nơi nương nhờ của 24 sắc pháp phụ thuộc.
24 sắc pháp phụ thuộc vào sắc tứ đại:
5 sắc tịnh căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân.
5 – 7 sắc đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
2 sắc tính: sắc nam tính, sắc nữ tính.
1 sắc ý căn.
1 sắc mạng chủ.
1 sắc vật thực.
1 sắc chân không.
2 sắc cử động: sắc thân cử động, sắc khẩu cử động.
3 sắc biến chuyển: sắc nhẹ nhàng, sắc mềm mại, sắc uyển chuyển.
4 sắc trạng thái: sắc sanh, sắc liên tục, sắc già dặn, sắc vô thường.
28 sắc pháp này đều gọi là sắc uẩn.
Một người bình thường, không bị khuyết tật, thân thể có đầy đủ 27 sắc pháp.
Nếu là người nam, thì trừ sắc nữ tính.
Nếu là người nữ, thì trừ sắc nam tính.
Nếu người bị đui mù, câm điếc, thì người ấy có số lượng sắc pháp giảm xuống theo bệnh tật.
2) Thọ uẩn.
Thọ uẩn đó là tâm sở thọ, có trạng thái cảm thọ trong đối tượng.
Thọ có 3 loại tính theo cảm thọ trong đối tượng:
Thọ khổ có trạng thái khổ khó chịu.
Thọ lạc có trạng thái lạc dễ chịu.
Thọ xả có trạng thái không khổ, không lạc.
Thọ có 5 loại tính theo cảm thọ đối tượng do thân, tâm làm chủ:
Thọ khổ đồng sinh với thân thức tâm (thân khổ).
Thọ lạc đồng sinh với thân thức tâm (thân an lạc).
Thọ hỷ đồng sinh với ý thức tâm (tâm an lạc).
Thọ ưu đồng sinh với sân tâm (tâm khổ não).
Thọ xả đồng sinh với ý thức tâm (tâm không khổ, không lạc).
Mỗi tâm phát sinh có tâm sở thọ đồng sinh với tâm, tâm sở thọ ấy là thọ uẩn.
3) Tưởng uẩn.
Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng có trạng thái ghi nhớ trong 6 đối tượng.
Sắc tưởng ghi nhớ các hình ảnh màu sắc.
Thanh tưởng ghi nhớ các loại âm thanh, tiếng nói.
Hương tưởng ghi nhớ các thứ mùi thơm, hôi.
Vị tưởng ghi nhớ các thứ vị ngon, dở.
Xúc tưởng ghi nhớ các loại cảm xúc nóng lạnh, cứng mềm…
Pháp tưởng ghi nhớ các tâm, tâm sở, sắc pháp, các ngôn ngữ chế định, môn học và cả Niết Bàn.
Mỗi tâm phát sinh, đều có tâm sở tưởng đồng sinh với tâm, tâm sở tưởng ấy là tưởng uẩn.
4) Hành uẩn.
Hành uẩn đó là 50 tâm sở (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng).
Có trạng thái cấu tạo, tạo các pháp; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với bất thiện tâm, tạo nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp) do thân, khẩu, ý; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với thiện tâm, tạo nên thiện nghiệp, do thân, khẩu, ý.
Mỗi tâm phát sinh, có các tâm sở này ít hoặc nhiều, tùy theo năng lực và phận sự của mỗi tâm. Ngoại trừ hai tâm sở thọ và tâm sở tưởng ra, các tâm sở còn lại đều là hành uẩn.
5) Thức uẩn.
Thức uẩn đó là tất cả các tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm có trạng thái biết đối tượng. Đối tượng có 6 loại, do đó tất cả tâm chia ra làm 6 loại tâm.
Nhãn thức tâm: có 2 tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần, các hình ảnh.
Nhĩ thức tâm: có 2 tâm làm phận sự lắng nghe thanh trần, các âm thanh.
Tỷ thức tâm: có 2 tâm làm phận sự ngửi các thứ mùi hương.
Thiệt thức tâm: có 2 tâm làm phận sự nếm các thứ vị.
Thân thức tâm: có 2 tâm làm phận sự cảm giác xúc trần nóng, lạnh, cứng, mềm…
Ý thức tâm: có 79 tâm làm nhiều phận sự biết pháp trần: tâm, tâm sở, sắc pháp, các ngôn ngữ chế định ra môn học,… và cả đối tượng Niết Bàn tùy theo năng lực của mỗi tâm.
Mỗi tâm là mỗi thức uẩn.
Thật ra, mỗi tâm phát sinh đều có một số tâm sở ít hoặc nhiều tùy theo năng lực và phận sự của tâm ấy. Các tâm sở này đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối tượng với tâm, đồng nơi phát sinh với tâm.
Cho nên, khi mỗi tâm phát sinh nghĩa là 4 danh uẩn đồng sinh; khi tâm diệt nghĩa là 4 danh uẩn đồng diệt.
Mỗi tâm phát sinh đều nương nhờ nơi môn đó là sắc pháp.
Như vậy:
Sắc pháp mà tâm ấy nương nhờ thuộc sắc uẩn.
Tâm ấy làm chủ thuộc thức uẩn.
Tâm sở thọ đồng sinh với tâm ấy thuộc thọ uẩn.
Tâm sở tưởng đồng sinh với tâm ấy thuộc tưởng uẩn.
Tâm sở còn lại (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) đồng sinh với tâm ấy thuộc hành uẩn
Những chúng sinh có ngũ uẩn:
Khi mỗi tâm phát sinh là ngũ uẩn phát sinh,
Khi mỗi tâm diệt là ngũ uẩn diệt.
Vốn trạng thái của tâm sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng, bởi do nhân duyên hỗ trợ từ vô thủy cho đến nay, từ kiếp này sang kiếp khác tiếp nối nhau, trên cuộc hành trình tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh.
Vốn trạng thái của thân hoặc sắc uẩn cùng sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng giới hạn trong mỗi kiếp, do bởi nghiệp và tuổi thọ của mỗi chúng sinh. Khi nghiệp ấy tận cùng, tuổi thọ hết, thân mạng chủ (sắc mạng chủ: Rūpujīvitindriya) bị cắt đứt, chấm dứt một kiếp, đồng thời tâm tách rời khỏi thân, gọi là chết.
Sau khi chết, nếu chúng sinh ấy còn phiền não, tham ái, thì nghiệp còn cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp trước với kiếp sau không liên quan đến phần thân, mà chỉ liên quan đến phần tâm.
Đức Phật dạy ngũ uẩn này đều là vô ngã.
Vô ngã với nghĩa:
– Anattā asārakaṭṭhena: Vô ngã với ý nghĩa là vô dụng, không có cốt lõi vững chắc, không có tính chất bền vững lâu dài.
– Avasavattanaṭṭhena anattā: Vô ngã với ý nghĩa không chiều theo ý muốn của ai.
Những ví dụ về Ngũ uẩn
Trong bài kinh PheṇapiṇḍasuttaĐức Phật thuyết dạy những ví dụ về mỗi uẩn có ý nghĩa được tóm lược như sau:
1- Sắc uẩn ví như bọt nước (pheṇapiṇḍūpamaṃ rūpaṃ).
Nghĩa là sắc uẩn (thân), đó là 28 sắc pháp ví như bọt nước.
Trong mùa mưa lụt lớn, trên dòng sông nước chảy kết tụ những bọt nước thành đống bọt nước lớn. Đống bọt nước này dù nhỏ, dù lớn cũng không thể sử dụng làm vật gì, để đem lại sự lợi ích lâu dài; nếu đống bọt nước này trôi đi chưa bị tan rã giữa đường, thì khi trôi ra đến biển chắc chắn phải bị tan rã, trở nên vô dụng. Cũng như vậy, sắc uẩn (thân) này đó là 28 sắc pháp sanh rồi diệt có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái bất tịnh, thường có mọi thứ bệnh hoạn ốm đau. Sắc uẩn (thân) này khi tái sinh đầu thai ban đầu nhỏ xíu, theo thời gian, to lớn dần như thân hình của con voi, con cá mập,… rồi cuối cùng cũng bị tan rã, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức Phật ví sắc uẩn (thân) này như bọt nước.
2- Thọ uẩn ví như bong bóng nước (vedanāpubbuḷūpamā)
Nghĩa là thọ uẩn, đó là tâm sở thọ, ví như bong bóng nước.
Trời mưa lớn, hạt mưa nặng hạt rơi xuống hồ, vũng nước… nổi lên những bong bóng nước. Những bong bóng nước này nổi lên liền vỡ ngay, không thể sử dụng làm gì để đem lại sự lợi ích, trở thành vô dụng. Cũng như vậy, thọ uẩn này đó là thọ khổ, thọ lạc, thọ xả … sinh rồi diệt mau lẹ, không tồn tại lâu dài, chỉ có khổ mà thôi, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức Phật ví thọ uần này như bóng nước.
3- Tưởng uẩn ví như ảo ảnh (maricikūpamā saññā).
Nghĩa là tưởng uẩn, đó là tâm sở tưởng ví như ảo ảnh.
Trong mùa hè nóng bức, khách lữ hành nóng nực và khát nước đi trên đường, nhìn về phía trước trời nắng chập chờn gợn sóng giống như đằng trước có nước sông. Khi đi đến, gợn sóng kia di chuyển đến phía trước, luôn luôn có một khoảng cách. Đó là ảo ảnh không có thật chỉ là vô dụng. Cũng như vậy, tưởng uẩn này ghi nhớ, tưởng nhớ những đối tượng không còn thật nữa. Ví như khi khát nước, tưởng nhớ đến nước, nhưng không giúp làm cho đỡ cơn khát được, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức Phật ví tưởng uẩn này ví như ảo ảnh.
4- Hành uẩn ví như cây chuối (saṅkhārā kadalūpamā).
Nghĩa là hành uẩn, đó là 50 tâm sở, (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) ví như cây chuối.
Một người cần cây có lõi, đi vào rừng nhìn thấy cây chuối lớn trơn tru, người ấy chặt cây chuối đem về nhà. Khi bóc bẹ chuối từ ngoài vào trong ruột, không tìm thấy lõi cây, chỉ là vô dụng mà thôi. Cũng như vậy, hành uẩn này tạo tác các pháp hữu vi, mà các pháp hữu vi sinh rồi diệt, có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, không phải ta, không phải của ta, chỉ là vô dụng mà thôi.
Cho nên, Đức Phật ví hành uẩn này như cây chuối.
5- Thức uẩn ví như nhà ảo thuật (mayūpamaṃ viññāṇaṃ).
Nghĩa là thức uẩn, đó là 89 hoặc 121 tâm, ví như nhà ảo thuật.
Các nhà ảo thuật biểu diễn các trò ảo thuật rất nhanh tay, để đánh lừa khán giả một cách tinh xảo. Cũng như vậy, đối với các hàng phàm nhân, thức uẩn biết mọi đối tượng cho là ta biết, nhưng biết sai lầm đảo điên; các pháp hữu vi là vô thường, biết cho là thường; các pháp hữu vi là khổ, biết cho là lạc; các pháp hữu vi là vô ngã, biết cho là ngã (ta); các pháp hữu vi là bất tịnh, biết cho là tịnh, xinh đẹp,… nhưng thật ra, các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Thế mà thức uẩn của các hàng phàm nhân biết bị đánh lừa đảo điên.
Cho nên, Đức Phật ví thức uẩn này như nhà ảo thuật.
Pháp vô ngã không những có trong ngũ uẩn, mà còn gồm có trong các pháp hữu vi và pháp vô vi.
Đức Phật dạy: Sabbe dhammā anattā.
Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã.
Pháp hữu vi: Đó là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới…là pháp được cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Các pháp hữu vi này đều là pháp vô ngã.
Pháp vô vi: Đó là Niết Bàn (kể cả pháp chế định) là pháp không bị cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Pháp vô vi này cũng đều là pháp vô ngã.
Pháp vô ngã này chỉ có trong Phật giáo; ngoài Phật giáo, hoàn toàn không có quan niệm về pháp vô ngã này.
Thật vậy, trong đời, người nào không biết về Phật giáo, người ấy có thể có quan niệm về vô thường, quan niệm về khổ, nhưng không bao giờ có quan niệm về vô ngã.
Ví dụ: Khi người ta gặp trường hợp người hoặc vật đang có hiện hữu rồi chết hoặc mất, không còn hiện hữu nữa. Người ta than rằng: Vô thường! Vô thường! Có rồi không có!
Khi người ta mắc bệnh hoạn hoặc ốm đau, bệnh nan y khó chữa, hoặc gặp phải tai nạn bi thương… người ta thốt lên rằng: Khổ quá! Khổ quá! Không chịu đựng nổi!
Trong những trường hợp ấy chẳng bao giờ nghe người ta thốt lên: Vô ngã! Vô ngã!
Bởi vì, những người ấy không có quan niệm về vô ngã, mà chỉ có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) cho là ngã, ta, người, chúng sinh v.v… mà thôi.
Vả lại, những người ấy có quan niệm về vô thường, khổ quá thô thiển; nghĩa là mỗi khi gặp hoàn cảnh xấu, trường hợp có rồi không có, lâm bệnh, tai nạn… thì mới thốt lên: Vô thường! Khổ quá!
Trong cuộc sống bình thường, những người ấy có tà kiến thấy sai chấp lầm đảo điên, trong ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác), chúng sinh khác cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.
Trong Phật giáo, những người nào học hỏi nghiên cứu, thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, những người ấy có ý thức rõ ràng về vô thường, khổ, vô ngã vô cùng vi tế, sâu sắc. Thật ra: Vô thường, khổ, vô ngã có trong thật tánh của các pháp hữu vi, bởi vì pháp hữu vi sinh rồi diệt không ngừng, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Đặc biệt nhất đối với hành giả đang tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bằng chánh kiến thiền tuệ mới diệt được tà kiến, thấy sai chấp lầm nơi sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh.
Tự ngã có thật hay không?
Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã. Như vậy, theo giáo pháp của Đức Phật thì không có tự ngã, cái ta thật.
Thật vậy, người ta có quan niệm rằng ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm, ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta cảm giác, ta suy nghĩ, ta buồn, ta vui, v.v… và v.v… Trong vô số cái ta ấy, thử hỏi cái ta nào là cái ta thật?
Sở dĩ, có vô số cái ta ấy, là do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hay nói cách khác do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc pháptừ danh phápcho là ta, ngã. Khi có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn, hoặc sắc pháp, danh pháp bên trong của mình cho là ta, ngã; thì cũng thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp bên ngoài (của người khác) của chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v…
Như vậy, cái ta thật không có, mà chỉ có tâm tà kiến là có thật.
Tự ngã, cái ta không có thật, thì phương pháp diệt ngã cũng không có.
Tâm tà kiến có thật, nên phương pháp diệt tâm tà kiến có thật
Nếu khi đã diệt được tâm tà kiến theo chấp ngã rồi, thì chắc chắn không còn thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, hoặc từ sắc pháp, từ danh pháp cho là ta, là người, là chúng sinh v.v… vĩnh viễn không phát sinh lại được nữa.
Phương pháp diệt tâm tà kiến chỉ có cách tiến hành thiền tuệ mà thôi. Khi trí tuệ thiền tuệ phát sinh tuần tự từ thấp đến cao qua 16 trí tuệ thiền tuệ, lần thứ nhất, đến trí tuệ thứ 14 gọi là Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ. Chính trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới này có Niết Bàn làm đối tượng, mới có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến theo chấp ngũ uẩn(sakkāyaḍiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānuḍiṭṭhi). Cho nên, đối với bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến theo chấp ngũ uẩn, hoặc tà kiến theo chấp ngã, bất cứ lúc nào trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai (nhiều nhất 7 kiếp nữa).
Chấp ngã có 3 loại
Sự chấp ngã có 3 loại:
Tà kiến theo chấp ngã.
Tham ái theo chấp ngã.
Ngã mạn theo chấp ngã.
Tà kiến theo chấp ngã: Tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn… cho là tự ngã của ta (eso me attā). Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tà kiến theo chấp ngã này không còn dư sót, còn lại tham ái theo chấp ngã và ngã mạn theo chấp ngã vẫn còn. Song bậc Thánh Nhập Lưu không bao giờ tạo ác nghiệp nặng nào có thể cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; chỉ tái sinh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Tham ái theo chấp ngã: Tham ái theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là của ta (etaṃ mama). Bậc Thánh Bất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tham ái theo chấp ngã trong cõi dục giới. Còn tham ái loại vi tế trong bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới chưa diệt được và ngã mạn theo chấp ngã cũng chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai mãn kiếp ở cõi người, không trở lại tái sinh cõi dục giới, mà chính bậc thiền hữu sắc (hoặc bậc thiền vô sắc) sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới (hoặc cõi trời vô sắc giới) và chắc chắn sẽ trở thành Bậc Thánh Arahán trên cõi trời sắc giới ấy, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Ngã mạn theo chấp ngã: Ngã mạn theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn… cho là ta (eso hamasmi). Bậc Thánh Arahán có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại ngã mạn theo chấp ngã này, và tham ái theo chấp ngã loại vi tế trong các bậc thiền và cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới. Cho nên, bậc Thánh Arahán mãn kiếp ở cõi người, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hối trong ba giới bốn loài.
Chấp ngã – không chấp ngã
Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm nhân, chưa phải Thánh Nhân, thì còn chấp ngã do bởi phiền não, nhất là tà kiến, tham ái, ngã mạn.
Sở dĩ một số phàm nhân vẫn còn có chấp ngã, là vì họ không đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn; không được lắng nghe chánh pháp, không hiểu biết chánh pháp, không hành pháp hành thiền tuệ, không chứng đắc thành bậc Thánh Nhân… Do đó, số phàm nhân ấy có phiền não nặng nề, nên còn chấp ngã, rồi tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình lẫn người, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Còn những hạng thiện trí phàm nhân thường đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn Giác; được lắng nghe chánh pháp, hiểu biết chánh pháp, tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não trở thành bậc Thánh Arahán. hoàn toàn không còn tà kiến, tham ái, ngã mạn nữa, bậc Thánh Arahán có trí tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn này là:
Không phải tự ngã của ta (na me so attā).
Không phải của ta (netaṃ mama).
Không phải là ta (nesohamasmi).
Cho nên, bậc Thánh Nhân không còn làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình lẫn người.
Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ mà chưa chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả nào, thì vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân (kalyāṇaputhujjana) chưa diệt được tà kiến chấp ngã. Tuy hạng thiện trí phàm nhân còn tà kiến chấp ngã, nhưng tà kiến chấp ngã này chỉ có trở ngại cho Siêu tam giới thiện pháp mà thôi, chứ không làm trở ngại cho việc tạo mọi tam giới thiện pháp đó là dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp. Cho nên, hạng thiện trí phàm nhân này sau khi chết:
– Nếu có dục giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm người, hoặc làm thiên nam hoặc làm thiên nữ ở 1 trong 6 cõi trời dục giới.
– Nếu có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm phạm thiên ở 1 trong 16 cõi sắc giới phạm thiên.
– Nếu có vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì sinh làm phạm thiên ở 1 trong 4 cõi vô sắc giới phạm thiên.
Như vậy, tà kiến chấp ngã của hạng thiện trí phàm nhân chỉ có trở ngại cho pháp Siêu tam giới, nghĩa là ngăn cản sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn mà thôi.