Ebook Quyển Kinh Chuyển Pháp Luân – Tỳ Khưu Hộ Pháp
KINH CHUYỂN-PHÁP-LUÂN
(DHAMMACAKKAPPAVATTANASUTTA)
(Tái bản lần thứ nhất có sửa và bổ sung)
Trong Chú-giải Dhammacakkappavattanasutta-vaṇṇanā giảng giải rằng:
“Isipatane nisinnassa dvādasākārāya saccadesanāya pavattitaṃ desanāñāṇampi dhammacakkaṃ nāma.”
Đức-Phật Gotama ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana gần kinh-thành Bārāṇasī thuyết giảng bài kinh Dhammacakkap- pavattanasutta giảng giải về tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-thành, trí-tuệ- thành) (4×3) thành 12 loại trí-tuệ gọi là Dhammacakka: Bánh xe Chuyển-Pháp-Luân.
Lời Nói Đầu
Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian đó là quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba- la-mật mà vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo và tích lũy ở trong tâm từ vô số kiếp quá- khứ cho đến kiếp hiện-tại được tóm lược theo thời gian diễn biến từ kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại như sau:
Đức-Phật Gotama vốn là Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt đã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua suốt ba thời-kỳ:
– Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác phát nguyện ở trong tâm muốn trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, để tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, rồi cố gắng tinh-tấn tạo các pháp-hạnh ba-la-mật suốt bảy a-tăng-kỳ đã có nhiều năng lực chuyển sang thời-kỳ giữa.
– Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác phát nguyện bằng lời nói để cho nhiều người biết Ngài muốn trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, rồi cố gắng tinh-tấn tạo các pháp- hạnh ba-la-mật suốt 9 a-tăng-kỳ.
Dù Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã tạo các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 16 a-tăng-kỳ vẫn còn là Đức-Bồ-tát bất định (aniyatabodhiatta) vì Đức-Bồ-tát có thể thay đổi ý nguyện chỉ muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác hoặc vị thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà thôi.
Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác quyết tâm không thay đổi ý nguyện mà vẫn tiếp tục kiên trì cố gắng tinh-tấn tạo các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ và có 8 chi-pháp để được Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký.
– Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô- sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông tam-giới (lokiya-abhiññā), nhận làm một đoạn đường sình lầy để cho Đức-Phật Dīpaṅkara cùng với 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán đi ngang qua, đoạn đường chỉ còn một sải tay nữa mới được hoàn thành, thì Đức-Phật Dīpaṅkara cùng với 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán vừa ngự đến, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha nằm sấp xuống đất trên đoạn đường một sải tay còn lại, làm như chiếc cầu, hai tay chắp lên trán kính thỉnh Đức- Phật Dīpaṅkara cùng với 400 ngàn chư Thánh A- ra-hán ngự đi trên lưng của mình, để cúng dường Đức-Phật cùng chư Thánh-tăng. Khi ấy, Đức- Phật Dīpaṅkara với Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ vị đạo-sĩ Sumedha hội đủ 8 chi-pháp:
1- Loài người thật.
2- Người nam thật.
3- Kiếp hiện-tại có khả năng trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
4- Trực-tiếp đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
5- Bậc xuất gia đạo-sĩ có chánh-kiến đầy đủ.
6- Chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc
5 phép-thần-thông tam-giới (lokiya-abhiññā).
7- Quyết tâm cúng dường sinh-mạng đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
8- Có ý nguyện vững chắc quyết tâm trở thànhĐức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.
Với Phật-nhãn vị-lai-kiến-minh của Đức-Phật thấy rõ, biết rõ trong thời vị-lai vị đạo-sĩ này chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, nên Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, vị đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu- việt Sumedha lần đầu tiên được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a- tăng-kỳ và 100 đại-kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama, nên Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ chưa từng có.
Bắt đầu từ kiếp ấy về sau, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác chính thức là Đức-Bồ-tát cố định (niyatabodhisatta) tiếp tục kiên trì tạo và bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Trong khoảng thời gian ấy, nếu có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian thì Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đều đến hầu đảnh lễ Đức-Phật ấy, và được Đức- Phật ấy thọ ký xác định thời gian còn lại.
Có 24 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, nên Đức-Bồ-tát tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama được 24 Đức-Phật thọ ký. Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký và Đức-Phật Kassapa thứ 24 cuối cùng thọ ký.
Trong suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, trải qua vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo và bồi bổ đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho đến kiếp áp chót là kiếp Đức-vua Bồ-tát Vessantara, Sau khi Đức- vua Bồ-tát chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam Setaketu trên cõi trời Tusita (Đâu-suất đà-thiên) hưởng an-lạc trên cõi trời ấy. Khi ấy, 6 Đức-vua-trời dục-giới cùng chư Phạm-thiên ngự đến kính thỉnh cầu Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu xuống đầu thai làm người để trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng-Giác thuyết-pháp tế độ chúng-sinh.
Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu suy xét đầy đủ 5 điều của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót đầu thai làm người xong, nên Đức-Bồ-tát thiên-nam nhận lời thỉnh cầu của chư-thiên, chư phạm-thiên.
Vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm-lịch), Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tusita, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác động cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại- quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác động gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī của Đức-vua Suddhodana dòng Sakya tại kinh-thành Kapilavatthu.
Tròn đúng 10 tháng, gần đến ngày sinh Thái-tử, Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī trên đường từ kinh-thành Kapilavatthu ngự trở về kinh-thành Devadaha, Bà truyền lệnh dừng kiệu, Bà ghé vào vườn Lumbinī để du lãm. Khi đến gần cây Sāla to lớn, Bà đứng đưa cánh tay phải lên, thì cành cây sà xuống, Bà nắm chặt lấy cành cây với tư thế đứng vững vàng, trong tư thế đứng này, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót sẽ đản sinh ra đời.
Khi ấy, các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi Bà đứng, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác cao thượng đản sinh ra đời khỏi lòng Chánh-cung Hoàng-hậu, với đôi chân ra trước, toàn thân hình ra sau được an lành cả Đức-Bồ- tát lẫn mẫu-hậu của Ngài, vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch), tại khu vườn Lumbinī (nay thuộc về nước Nepal).
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đứng với đôi bàn chân bằng phẳng trên mặt đất, nhìn về 8 hướng, mỗi hướng toàn thể chư-thiên, chư phạm- thiên đều tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác là Bậc cao thượng nhất.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, toàn thể chư-thiên, chư phạm-thiên đều tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác là Bậc cao thượng nhất. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đứng nhìn về hướng Bắc, rồi ngự bước đi đầu tiên bằng chân phải đến bước thứ 7, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác dừng lại. Khi ấy, toàn thể chư thiên, chư phạm-thiên đều bảo với nhau rằng:
Bây giờ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng sẽ truyền dạy lời tối ư quan trọng.
Toàn thể chư thiên, chư phạm-thiên đều im lặng chờ lắng nghe. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác dõng dạc truyền dạy rằng:
“Aggo’ham’asmi lokassa!
Jeṭṭho’ham’asmi lokassa!
Seṭṭho’ham’asmi lokassa!
Ayamantimā jāti.
Natthi dāni punabbhavo.”
Ta là Bậc cao-cả nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh!
Ta là Bậc vĩ-đại nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh!
Ta là Bậc tối-thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh!
Kiếp này là kiếp chót của ta.
Ta không còn tái-sinh kiếp nào khác nữa.
Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đản sinh tại vườn Lumbinī, thì đồng thời có 7 người và vật cũng đồng sinh với Đức-Bồ-tát như sau:
1- Công-chúa Yasodharā.
2- Hoàng-tử Ānanda.
3- Channa (quan giữ ngựa).
4- Kāḷudāyi (quan cận thần).
5- Ngựa báu Kaṇḍaka.
6- Cây Mahābodhirukkha (cây Đại-Bồ-đề) tại
khu rừng Uruvelā.
7- Bốn hầm kho báu xung quanh kinh-thành Kapilavatthu.
Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī thỉnh Thái-tử Bồ-tát ngự trở về kinh-thành Kapila-vatthu.
Thái-tử là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc-đại-nhân và 80 tướng tốt phụ đó là quả-báu của 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà vô số tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát đã tạo và được tích lũy ở trong tâm suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
Chiêm ngưỡng Thái-tử có tướng tốt như vậy, Đức-vua Suddhodana cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên sau khi Thái-tử sinh ra đời được 5 ngày, Đức-vua Suddhodana tổ chức đại lễ đặt tên cho Thái-tử, truyền lệnh mời 108 vị bà-la-môn thông hiểu rõ 3 bộ sách xem tướng theo truyền thống bà-la-môn vào cung điện thiết đãi món cơm nấu bằng sữa tươi nguyên chất.
Trong số 108 vị bà-la-môn ấy có 8 vị bà-la-môn đại trí, sau khi xem tướng xong, thấy Thái-tử có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ.
Trong 8 vị bà-la-môn có 7 vị đưa lên 2 ngón tay, rồi tiên đoán quả quyết rằng:
– Nếu Thái-tử sống tại cung điện thì sẽ trở thành Đức-Chuyển-luân Thánh-vương có 4 biển làm ranh giới.
– Nếu Thái-tử từ bỏ cung điện đi xuất gia thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Duy chỉ có vị bà-la-môn trẻ tuổi nhất thuộc dòng dõi Koṇḍañña, tên là Sudatta, sau khi xem xét kỹ các tướng tốt của Thái-tử xong, vị bà-la- môn này chỉ đưa lên 1 ngón tay, rồi quả quyết tiên đoán rằng:
“Thái-tử có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc-đại- nhân và 80 tướng tốt phụ này, Thái-tử không thể sống tại cung điện, mà chắc chắn sẽ từ bỏ cung điện đi xuất gia, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác mà thôi.”
Tám vị bà-la-môn đại trí đều đồng tâm nhất trí với nhau rằng:
“Thái-tử chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
Đại lễ gội đầu và đặt tên cho Thái-tử được tổ chức rất trọng thể, các vị bà-la-môn đều đồng tâm nhất trí đặt tên là SIDDHATTHA (Siddha+attha) (có nghĩa là Bậc tế độ chúng sinh được thành tựu mọi lợi ích cao thượng).
* Khi Đức-Bồ-tát Thái-tử trưởng thành năm 16 tuổi, Đức Phụ-vương truyền ngôi báu cho Thái-tử lên ngôi làm vua và làm lễ thành hôn với Công-chúa Yasodharā của Đức-vua Suppabuddha và Chánh-cung Hoàng-hậu Amitā. Đức vua Siddhattha làm vua được 13 năm.
* Năm 29 tuổi, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha trốn khỏi kinh-thành Kapilavatthu đi xuất gia, để giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử. Đức-Bồ-tát ngự đến thọ giáo với vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta. Đạo-sư dạy pháp-hành thiền-định cho Đức-Bồ- tát Siddhattha, Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hành thiền-định không lâu, đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và chứng đắc đến đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là Vô-sở-hữu- xứ-thiền thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Đức-Bồ-tát không hài lòng với bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm ấy, bởi vì không phải là pháp- hành giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, nên Đức- Bồ-tát xin từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta, tìm đến thọ giáo với vị Đạo-sư Udaka Rāma- putta. Đạo-sư cũng dạy pháp-hành thiền-định cho Đức-Bồ-tát Siddhattha, Đức-Bồ-tát thực- hành pháp-hành thiền-định không lâu chứng đắc
4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và chứng đắc đến đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là Phi- tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm tột đỉnh ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc. Đức-Bồ-tát cũng không hài lòng bậc thiền ấy, nên xin từ giã vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta, để tìm pháp-môn khác giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đi đến khu rừng Uruvelā gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji. Nhóm 5 vị tỳ-khưu này xin theo hộ độ Đức-Bồ- tát Siddhattha.
* Đức-Bồ-tát Siddhattha thực-hành pháp khổ- hạnh (dukkaracariyā) là pháp khó hành suốt 6 năm trường ròng rã, cho đến nỗi thân hình gầy ốm chỉ còn da bọc xương, mà không trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Đức-Bồ-tát Siddhattha từ bỏ pháp khổ-hạnh, rồi hồi tưởng lại khi còn nhỏ cùng Đức Phụ- vương ra đồng làm lễ hạ điền rằng:
“Ta ngồi trong chiếc lều niệm hơi thở ra, hơi thở vào, đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.
Vậy, đề-mục thiền-định này làm nền tảng để ta trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng nên.
Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khoẻ yếu đuối, ta không thể thực-hành đề-mục niệm hơi thở ra, hơi thở vào được.
Vậy, điều tốt hơn ta nên thọ thực trở lại, để phục hồi sức khoẻ, rồi ta sẽ thực-hành đề-mục niệm hơi thở ra, hơi thở vào.”
Đức-Bồ-tát Siddhattha mang bát ngự đi vào xóm nhà Senā để khất thực trở lại.
Nhìn thấy Đức-Bồ-tát Siddhattha đi khất thực như vậy, nên nhóm 5 tỳ-khưu hiểu lầm rằng:
“Đức-Bồ-tát Siddhattha đã từ bỏ hành pháp khổ-hạnh để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, mà trở lại đời sống bình thường.”
Do hiểu lầm như vậy, nên nhóm 5 tỳ-khưu không theo hộ độ Đức-Bồ-tát nữa, nhóm 5 tỳ- khưu rời khỏi khu rừng Uruvelā, rồi dẫn nhau đi đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana gần kinh-thành Bārāṇasī, trú tại nơi ấy.
Đức-Bồ-tát Siddhattha độ vật thực lại được thời gian không lâu, sức khoẻ của Đức-Bồ-tát được phục hồi trở lại.
Trong thời gian Đức-Bồ-tát Siddhattha hành pháp khổ-hạnh, thì 32 tướng tốt của bậc đại- nhân và 80 tướng tốt phụ bị biến mất. Nay, kim thân của Đức-Bồ-tát Siddhattha lại hiện rõ 32
tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời như trước.
Ngày 14 tháng tư (âm-lịch), vào canh chót đêm ấy, Đức-Bồ-tát Siddhattha nằm thấy 5 đại- mộng (mahāsupina). Qua 5 đại-mộng ấy, Đức- Bồ-tát Siddhattha đoán biết chắc chắn rằng:
“Ta sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
Sáng sớm hôm rằm tháng tư âm-lịch, Đức- Bồ-tát Siddhattha ngự đi đến ngồi dưới gốc cây da, để chờ đến giờ đi vào xóm nhà khất thực.
Tại gốc cây da này, hằng năm vào sáng ngày rằm tháng tư, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường tạ ơn vị thiên-thần đúng theo lời nguyện của nàng. Nàng Sujātā là tiểu thư của ông phú hộ Mahāsena ở làng Sena gần khu rừng Uruvelā, khi nàng trưởng thành có đến gốc da này cầu nguyện rằng:
“Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, cùng giai cấp và sinh đứa con trai đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn vị thiên-thần tại cội cây này.”
Lời cầu nguyện của nàng được thành-tựu như ý, nên hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch), nàng Sujātā thường đem cơm sữa nấu rất công phu đến cúng dường tạ ơn vị thiên-thần tại cội cây này.
Từ sáng sớm nàng Sujātā thức dậy vắt sữa 8 con bò tinh khiết, khi nàng đem nồi đựng sữa đến gần vú mỗi con bò, thì dòng sữa chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có.
Nàng nấu nồi cơm sữa có các Đức-vua-trời và các phạm-thiên trông nom hỗ trợ, còn đem chất bổ dưỡng thêm vào nồi cơm sữa ấy.
Sáng hôm ấy, nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm sữa, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra theo tuần tự từ nồi sang chiếc mâm vàng đúng 49 vắt vừa đầy mâm. Nàng chứng kiến thêm điều lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy chiếc lồng bàn đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.
Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm sữa cùng với người tớ gái mà nàng đã công nhận như là đứa con gái theo sau đến gốc cây da.
Nhìn thấy Đức-Bồ-tát Siddhattha có đầy đủ các tướng tốt của bậc đại-nhân và các tướng tốt phụ, có hào quang tỏa ra từ kim thân của Đức- Bồ-tát sáng khắp vùng, nàng Sujātā phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ chưa từng có, bởi vì nàng tưởng rằng Đức-Bồ-tát Siddhattha là vị thiên-thần cội cây hiện ra thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng.
Nàng Sujātā cung-kính đi đến gần Đức-Bồ-tát Siddhattha, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa, bình nước, hoa quả, vật thơm, … cung-kính cúng dường lên Đức-Bồ-tát Siddhattha.
Khi ấy, cái bát của Đức-Bồ-tát bỗng nhiên biến mất, Đức-Bồ-tát Siddhattha nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:
– Kính bạch Đức Thiên-thần, con thành kính dâng cúng dường chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này lên Ngài.
Kính xin Ngài có tâm từ tế độ thọ nhận chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài. Bạch Ngài.
Đức-Bồ-tát Siddhattha đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật cúng dường ấy.
Sau khi thọ nhận chiếc mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa ngự đi đến bến sông Nerañjarā, nơi mà chư Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác quá-khứ kiếp chót trước khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng đều ngự đến bến này để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supaṭitthita. Đức-Bồ-tát Siddhattha đặt chiếc
mâm vàng đầy cơm sữa tại bến Supaṭitthita, rồi xuống tắm dòng sông Nerañjarā.
Sau khi tắm xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha mặc y cà-sa tượng trưng như lá cờ chiến thắng của chư Thánh A-ra-hán, đoạn ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm, uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, Đức-Phật Gotama không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng pháp-vị giải thoát Niết-bàn).
Sau khi độ cơm xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha cầm chiếc mâm vàng, rồi phát nguyện rằng:
“Nếu hôm nay tôi sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước, nếu không được như vậy thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước.”
Sau khi phát nguyện xong, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông Nerañjarā.
Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa, rồi chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy sông, đụng phải 3 chiếc mâm vàng của 3 Đức-Phật quá-khứ là Đức- Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức-Phật Kassapa phát ra một âm thanh vang dội làm cho Long-vương Kālanāga tỉnh giấc, nên nghĩ rằng:
“Hôm qua một Đức-Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức-Phật khác xuất hiện.”
Long-vương thức dậy tán dương ca tụng hàng trăm bài kệ, tán dương sự kiện vô cùng hy hữu xuất hiện trên thế gian.
Trưa hôm ấy, Đức-Bồ-tát Siddhattha nghỉ trong khu rừng Sāla, bên bờ sông Nerañjarā những cây Sāla đua nhau nở hoa.
Chiều hôm ấy, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đi trên đường đến cội cây Assattha tại khu rừng Uruvelā, dọc hai bên đường toàn thể chư-thiên trang hoàng những đóa hoa trời, hương trời cúng dường Đức-Bồ-tát Siddhattha.
Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya trên đường đi ngược chiều về phía Đức-Bồ-tát Siddhattha, nhìn thấy Đức-Bồ-tát Siddhattha liền phát sinh đức-tin trong sạch, nên cúng dường 8 nắm cỏ lên Đức-Bồ-tát Siddhattha.
Sau khi nhận 8 nắm cỏ, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đi thẳng đến cội cây Assattha.
* Đức-Bồ-tát Siddhattha đứng hướng Nam của cội cây Assattha, nhìn thẳng về hướng Bắc, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi-giới chúng-sinh hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi đại-địa-ngục Avīci, còn toàn cõi-giới chúng-sinh hướng Bắc được nổi lên tận cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát nghĩ rằng:
“Nơi này không phải là chỗ ta ngồi để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
* Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự sang đứng hướng Tây của cội cây Assattha, nhìn thẳng về hướng Đông cũng như vậy, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi-giới chúng-sinh hướng
Tây bị chìm sâu xuống cõi đại-địa-ngục Avīci, còn toàn cõi-giới chúng-sinh hướng Đông được nổi lên tận cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát nghĩ rằng:
“Nơi này không phải là chỗ ta ngồi để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
* Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự sang đứng hướng Bắc của cội cây Assattha, nhìn thẳng về hướng Nam cũng như vậy, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi-giới chúng-sinh hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi đại-địa-ngục Avīci, còn toàn cõi-giới chúng-sinh hướng Nam được nổi lên tận cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát nghĩ rằng:
“Nơi này không phải là chỗ ta ngồi để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
* Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự sang đứng hướng Đông của cội cây Assattha, nhìn thẳng về hướng Tây.
Thật là phi thường thay! Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có cảm giác toàn khắp mọi cõi-giới chúng-sinh đều ở trong trạng-thái thăng bằng, nên Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nghĩ rằng:
“Chính nơi này là chỗ ta ngồi để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội cây Assattha.
Thật là phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên hóa thành ngôi bồ-đoàn quý báu có chiều cao 14 hắc tay thật là nguy nga lộng lẫy, mà không có nhà kiến trúc nào có tài nghệ tạo nên ngôi bồ-đoàn quý báu tuyệt vời như vậy được, bởi vì ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do oai lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi kiết già quay mặt về hướng Đông vững vàng trên ngôi bồ-đoàn quý báu, rồi phát nguyện bằng lời chân thật rằng:
“Dù cho thịt và máu trong thân của ta có khô cạn, dù cho sắc thân này chỉ còn da bọc xương, nếu ta chưa trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, thì ta quyết không bao giờ rời khỏi ngôi bồ-đoàn quý báu này.”
Ngôi bồ-đoàn nơi toàn thắng Ác-ma-Thiên
Ngay khi ấy, từ cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên, Ác-ma-thiên hóa ra hàng ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi trời Girimekhala dẫn đầu đoàn thiên ma tướng, thiên ma binh rầm rộ hiện xuống vây quanh cội cây Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma binh dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành cho được ngôi bồ-đoàn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
Vừa mới đây, chư-thiên, phạm-thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung-kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
Thoáng nhìn thấy Ác-ma-thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả chư- thiên, phạm-thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vẫn điềm nhiên ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu một cách an nhiên tự tại.
Ác-ma-thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết hại Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, để chiếm đoạt ngôi bồ-đoàn quý báu ấy, với mục đích ngăn cản không cho Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Do oai-lực 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha sắp trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể làm hại Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha được.
Quả thật như vậy, do oai-lực 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, các loại vũ khí và phép thuật của Ác-ma-thiên đều hóa thành những vật cúng dường Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác.
Ngồi trên lưng voi trời Girimekhala, Ác-ma- thiên vô cùng căm uất chỉ tay về Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ra lệnh rằng:
– Này Sa-môn Gotama! Nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi bồ-đoàn ấy, vì ngôi bồ-đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha từ tốn đáp lại rằng:
– Này Ác-ma-thiên! Ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do oai-lực của 30 pháp-hạnh ba- la-mật, 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành mà Như-Lai đã thực-hành từ vô số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này.
Vì vậy, ngôi bồ-đoàn này thuộc về của Như- Lai, không phải của ngươi.
Khi ấy, chỉ một mình Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi bồ- đoàn quý báu, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha cả, nên Ác-ma-thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức-Bồ- tát rằng:
– Thưa Sa-môn Gotama! Ngài nói rằng:
“Ngôi bồ-đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài. Vậy, ai làm chứng cho Ngài?”
Nhìn xung quanh đều không có một chư- thiên, phạm-thiên nào cả, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng:
– “Tiền-kiếp của Như-Lai đã trải qua vô số kiếp quá-khứ, đã từng tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp- hạnh ba-la-mật, có 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng-sinh nào đứng ra làm chứng cho Như-Lai, chỉ có mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như-Lai được không?”
Thật là phi thường thay! Lời chân-thật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vừa chấm dứt, thì ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác-ma-thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi trời Girimekhala bỏ chạy trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên; còn đám thiên ma binh, thiên ma tướng thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng chạy tán loạn theo Ác-ma-thiên trở về cõi trời Tha- hóa-tự-tại-thiên.
Sau khi toàn thắng Ác-ma-thiên, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vẫn ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu dưới cội cây Assattha vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khắp mười ngàn cõi-giới chúng-sinh, chư-thiên 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên 15 tầng trời sắc-giới, Long-vương dưới long-cung, … vui mừng reo hò vang dội khắp mọi nơi tán dương ca tụng oai lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha rằng:
– Ác-ma-thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
– Đức-Bồ-tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
Vì vậy, ngôi bồ-đoàn quý báu này được gọi là “Aparājitapallaṅka” nghĩa là ngôi bồ-đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác-ma-thiên.
Chư-thiên, phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu nhất từ cõi trời đến cúng dường, tán dương oai-lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
Đức-Bồ-Tát Siddhattha chứng đắc tam-minh
Sau khi toàn thắng Ác-ma-thiên vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha thực-hành pháp-hành thiền-định (samathabhāvanā) với đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới:
– Chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm, quan-sát, hỷ, lạc, định, do chế ngự được 5 pháp chướng-ngại là tham-dục, sân-hận, buồn-chán – buồn-ngủ, phóng- tâm – hối-hận, hoài-nghi.
– Chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ, lạc, định, do chế ngự được 2 chi-thiền là hướng-tâm, quan-sát.
– Chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc, định, do chế ngự được 1 chi-thiền là hỷ.
– Chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả, định, do chế ngự được 1 chi- thiền lạc, thay bằng chi-thiền xả.
Đó là 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm làm nền- tảng để chứng đắc tam-minh.
Tam-Minh (tevijja)
1- Tiền-kiếp-minh (pubbenivāsānussatiñāṇa) Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, có định-tâm trong sáng thanh-tịnh, thiền-tâm không lay động, làm nền tảng để Đức-Bồ-tát hướng tâm đến chứng đắc tiền-kiếp-minh: trí-tuệ nhớ rõ lại tiền-kiếp, từ một kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu triệu triệu kiếp,… cho đến vô lượng kiếp không giới hạn.
Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ nhớ rõ tiền-kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, trong cõi-giới nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, thực-hành đại-thiện- nghiệp, bất-thiện-nghiệp, tạo pháp-hạnh ba-la- mật nào, v.v…
Tiền-kiếp-minh là minh thứ nhất mà Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).
2- Thiên-nhãn-minh (dibbacakkhuñāṇa) Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, có định-tâm trong sáng thanh-tịnh, thiền-tâm không lay động làm nền tảng để Đức-Bồ-tát hướng tâm đến chứng đắc thiên-nhãn-minh: trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh hơn thiên-nhãn của chư-thiên, phạm-thiên.
Thiên-nhãn-minh có 2 loại:
– Tử-sinh-minh (cutūpapātañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ sự tử, sự tái-sinh của tất cả chúng- sinh muôn loài trong các cõi-giới chúng-sinh, do nghiệp nào, do quả của nghiệp nào, …
– Vị-lai kiến-minh (anāgataṃsañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh.
Chư Phật sử dụng vị-lai kiến-minh này để thọ ký, xác định thời gian còn lại của các Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-giác, Đức-Bồ-tát Độc-giác, các vị Bồ-tát thanh-văn-giác, v.v… xác định thời gian còn lại của các chúng-sinh trong kiếp vị-lai xa xăm.
Thiên-nhãn-minh là minh thứ nhì mà Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).
3- Trầm-luân tận-minh (āsavakkhayañāṇa) Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha dùng đệ tứ thiền sắc-giới làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ các pháp thập-nhị duyên-sinh (paṭiccasamup- pāda) là đối-tượng pháp-hành thiền-tuệ của chư Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thập-nhị duyên-sinh theo chiều thuận, chiều sinh như sau:
– Do vô-minh làm duyên, nên tạo các ác- nghiệp, các thiện-nghiệp tam-giới (Avijjāpaccayā saṅkhārā).
– Do các nghiệp làm duyên, nên tái-sinh-tâm (các quả-tâm) sinh (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ).
– Do tái-sinh-tâm làm duyên, nên sắc-pháp danh-pháp sinh (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ).
– Do sắc-pháp danh-pháp làm duyên, nên lục- xứ sinh (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ).
– Do lục-xứ làm duyên, nên lục-xúc sinh (Saḷāyatanapaccayā phasso).
– Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh. (Phassapaccayā vedanā).
– Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh (Vedanāpaccayā taṇhā).
– Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh (Taṇhāpaccayā upādānaṃ),
– Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu sinh (Upādānapaccayā bhavo).
– Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh sinh (Bhavapaccayā jāti).
– Do tái-sinh làm duyên, nên lão, tử, sầu não, khóc than, khổ thân, khổ tâm, nỗi thống khổ sinh. (Jātipaccayā jarā maraṇa soka parideva dukkha domanassupāyāsā sambhavanti).
Do vô-minh, v.v… làm duyên, nên sự sinh của toàn khổ-uẩn đều sinh như vậy (Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti).
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thập-nhị duyên- sinh theo chiều-thuận, chiều-sinh, để thấy rõ, biết rõ “sự-sinh” của mỗi pháp, nên trí-tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý khổ-thánh-đế và nhân sinh khổ-thánh-đế.
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thập-nhị nhân- diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:
– Do A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ diệt tận được vô-minh không còn dư sót, nên diệt tận được các hành (các nghiệp) (Avijjāyatveva asesavirāga- nirodhā saṅkhāranirodho).
– Do diệt tận được các hành (các nghiệp), nên diệt tận được tái-sinh-tâm (các quả-tâm) (Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho).
– Do diệt tận được tái-sinh-tâm, nên diệt tận được sắc-pháp, danh-pháp (Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho).
– Do diệt tận được sắc-pháp, danh-pháp, nên diệt lục-xứ (Nāmarūpanirodhā saḷāyatana- nirodho).
– Do diệt tận được lục-xứ, nên diệt tận được lục-xúc (Saḷāyatananirodhā phassanirodho).
– Do diệt tận được lục-xúc, nên diệt tận được lục-thọ (Phassanirodhā vedanānirodho).
– Do diệt tận được lục-thọ, nên diệt tận lục-ái (Vedanānirodhā taṇhānirodho).
– Do diệt tận được lục-ái, nên diệt tận tứ-thủ (Taṇhānirodhā upādānanirodho).
– Do diệt tận được tứ-thủ, nên diệt tận được nhị-hữu (Upādānanirodhā bhavanirodho).
– Do diệt tận được nhị-hữu, nên diệt tận được tái-sinh (Bhavanirodhā jātinirodho).
– Do diệt tận được tái-sinh, nên diệt tận được lão, tử, sầu não, khóc than, khổ thân, khổ tâm, nỗi thống khổ (Jātipaccayā jarā maraṇa soka parideva dukkha domanassupāyāsā nirujjhanti).
Do A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ diệt tận được vô- minh không còn dư sót, v.v… nên sự diệt của toàn khổ-uẩn đều diệt tận được như vậy (Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti).
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thập-nhị nhân- diệt theo chiều-nghịch, chiều-diệt, để thấy rõ, biết rõ “sự-diệt” của mỗi pháp, nên trí-tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý diệt khổ-thánh-đế và pháp- hành dẫn đến diệt khổ-thánh-đế.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thập-nhị duyên- sinh, thập-nhị nhân-diệt theo chiều-thuận, theo chiều-nghịch, chiều-sinh, chiều-diệt, trí-tuệ thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ sự-sinh, sự-diệt của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp tam-giới, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được 4 pháp-trầm-luân (āsava) bằng 4 Thánh-đạo-tuệ theo tuần tự như sau:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 1 pháp-trầm-luân là tà-kiến trầm-luân (diṭṭhāsava) đồng thời diệt tận được tất cả mọi tà-kiến khác không còn dư sót.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 1 pháp-trầm-luân là tham-dục trầm-luân (kāmā- sava) trong ngũ-dục loại thô (còn loại vi-tế chưa diệt được) đồng thời diệt tận được tất cả mọi tham-tâm trong ngũ-dục loại thô khác.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 1 pháp-trầm-luân là tham-dục trầm-luân (kāmā- sava) trong ngũ-dục loại vi-tế không còn dư sót, đồng thời diệt được tất cả mọi tham-tâm trong ngũ-dục loại vi-tế khác.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 2 pháp-trầm-luân là kiếp-sinh trầm-luân (bhavā- sava) và vô-minh trầm-luân (avijjāsava) không còn dư sót.
Trầm-luân-tận-minh là minh thứ ba mà Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào lúc canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch).
Như vậy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác- pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt tận được tất cả mọi tiền-khiên-tật xấu (vāsanā) đã tích lũy từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama lúc Ngài tròn đúng 35 tuổi, tại cội cây Assattha gọi là cây Đại-Bồ-đề (mahābodhirukkha) của Đức-Phật Gotama trong khu rừng Uruvelā (nay là Buddhagayā, Bihar, nước Ấn-Độ).
Mười ngàn cõi-giới chúng-sinh, chư-thiên từ mặt đất lên tận đến tầng trời sắc-giới phạm- thiên tột đỉnh, chư-thiên, phạm-thiên vô cùng vui mừng hoan hỷ thốt lên lời:
Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!
* Buddho uppanno!
Đức-Phật-bảo đã xuất hiện trên thế gian rồi!
* Dhammo uppanno!
Đức-Pháp-bảo đã xuất hiện trên thế gian rồi!
* Saṃgho uppanno!
Đức-Tăng-Bảo cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!
Tiếng hoan hô vang dội khắp toàn mười ngàn cõi-giới chúng-sinh.
Toàn thể mười ngàn cõi-giới, chư-thiên, phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu nhất từ các cõi trời đến cúng dường Đức-Phật Gotama và tán dương ca tụng hằng ngàn bài kệ.
Phật Ngôn Đầu Tiên Của Đức-Phật Gotama
Khi ấy, Đức-Phật Gotama tự thuyết ở trong tâm bằng hai bài kệ rằng:
“Anekajātisaṃsāraṃ,
sandhāvissaṃ anibbisaṃ.
Gahakāraṃ gavesanto,
dukkhā jāti punappunaṃ.
Gahakāraka! diṭṭho’si,
puna gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā,
gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ.
Visaṅkhāragataṃ cittaṃ,
taṇhānaṃ khayamajjhagā.
– Này“tham-ái”người thợ xây nhà “thân”!
Như-Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp.
Nên tử sinh luân-hồi vô số kiếp.
Tái-sinh mãi trong tam-giới là khổ.
– Này “tham ái”! người thợ xây nhà “thân”
Bây giờ Như-Lai đã gặp ngươi rồi.
Tất cả sườn nhà “phiền-não” của ngươi.
Như-Lai đã hủy hoại sạch cả rồi.
Đỉnh nhà “vô-minh” cũng bị tiêu diệt.
Nay, ngươi không còn xây nhà Như-Lai.
Tâm Như-Lai đã chứng ngộ Niết-bàn.
Diệt tận tất cả mọi “tham-ái”
Như-Lai đã chứng đắc A-ra-hán.
Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm của Đức-Phật Gotama này là Phật ngôn đầu tiên của Đức-Phật Gotama (Paṭhamabuddhavacana).
Đức-Phật hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn
Sau khi đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, Đức- Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ, gồm có 49 ngày như sau:
1- Tuần lễ thứ nhất: Đức-Phật ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu, tại cội Đại-Bồ-đề, ban ngày nhập A-ra-hán Thánh-quả, ban đêm suy xét thập-nhị duyên-sinh theo chiều-thuận, chiều- sinh; suy-xét thập-nhị nhân-diệt theo chiều- nghịch, chiều-diệt. Và tiếp theo 6 ngày sau, Đức-Phật nhập A-ra-hán Thánh-quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn, suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, gọi là tuần lễ “Pallaṅkasattāha”.
2- Tuần lễ thứ nhì: Đức-Phật rời khỏi ngôi bồ-đoàn quý báu, ngự về phía Đông Bắc, cách cội Đại-Bồ-đề 14 sải tay. Đức-Phật đứng nhìn về ngôi bồ-đoàn quý báu, nơi mà Đức-Phật đã toàn thắng 5 loại māra, đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Đức-Phật đứng nhìn ngôi bồ-đoàn quý báu không nháy mắt, suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 23 tháng 4 đến ngày 29 tháng 4, gọi là tuần lễ “Animisasattāha”.
3- Tuần lễ thứ ba: Đức-Phật đi kinh hành trên đoạn đường dài 60 hắc tay, được làm bằng 7 loại châu báu, do chư-thiên hóa ra để cúng dường Đức-Phật.
Đoạn đường này ở phía Bắc gần cội Đại-Bồ- đề theo chiều Đông Tây. Đức-Phật hóa phép thần-thông yamakapaṭihāriya hóa thành 2 dòng nước và lửa song song phát ra từ nơi kim thân của Ngài, rồi Đức-Phật ngự đi kinh hành, suy- xét về chánh-pháp suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, gọi là tuần lễ “Caṅkamasattāha”.
4- Tuần lễ thứ tư: Đức-Phật ngự ngồi tại lâu đài bằng vàng, về phía Tây Bắc của cội Đại-Bồ- đề do chư-thiên hóa ra để cúng dường Đức- Phật. Tại nơi đây, Đức-Phật suy-xét về Tạng Vi- Diệu-Pháp (Abhidhammapiṭaka) gồm có 7 bộ:
– Bộ Dhammasaṅganī: Bộ pháp-hội-tụ.
– Bộ Vibhaṅga: Bộ pháp-phân-tích.
– Bộ Dhātukathā: Bộ pháp-phân-loại.
– Bộ Puggalapaññatti: Bộ chúng-sinh chế-định.
– Bộ Kathāvatthu: Bộ pháp-luận-đề.
– Bộ Yamaka: Bộ pháp-song-đối.
– Bộ Paṭṭhāna: Bộ pháp-duyên-hệ.
Suy xét suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ratana- gharasattāha”.
5- Tuần lễ thứ năm: Đức-Phật ngự đến ngồi cội cây da ở phía Đông, cách cội Đại-Bồ-đề 32 sải tay, khi thì Đức-Phật suy xét chánh-pháp, khi thì Đức-Phật nhập A-ra-hán Thánh-quả. Khi ấy, có 3 cô thiên-nữ: Taṇhā, Aratī và Rāgā là con gái của Ác-ma-thiên, từ cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hiện xuống, để quyến rũ Đức-Phật, với lời nói lẳng lơ và bằng điệu bộ gợi tình, nhưng Đức- Phật không quan tâm, vẫn an nhiên tự tại nhập A-ra-hán Thánh-quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn.
Ba nàng thiên-nữ đã dùng hết khả năng của mình mà không thể cám dỗ được Đức-Phật, bởi vì Đức-Phật là bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, nên không một ai trong tam-giới này có thể làm cho tâm Đức-Phật xao động. Ba nàng thiên-nữ không quyến rũ được Đức-Phật, nên hồi tâm tán dương ca tụng Đức-Phật, rồi từ giã trở về cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên.
Đức-Phật ngự tại cội da này nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ajapālasattāha”.
6- Tuần lễ thứ sáu: Đức-Phật ngự đến ngồi tại cội me gần hồ Mucalinda, cách xa cội Đại- Bồ-đề 51 sải tay, về phía Đông Nam, Đức-Phật ngồi nhập A-ra-hán Thánh-quả. Khi ấy, trời mưa lớn, Đức-Long-Vương Mucalinda hiện ra dùng thân mình cuộn thành vòng tròn, chồng lên 7 vòng, để bao bọc xung quanh kim thân Đức- Phật, và phồng mang che trên đầu Đức-Phật, để mưa không làm ướt và lạnh. Đức-Long-vương tỏ lòng thành kính cúng dường Đức-Phật.
Đức-Phật nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 27 tháng 5, gọi là tuần lễ “Mucalindasattāha”.
7- Tuần lễ thứ bảy: Đức-Phật ngự đến ngồi tại cội cây gọi là Rājāyatana cách xa cội Đại- Bồ-đề 4 sải tay, về phía Nam. Đức-Phật nhập A- ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, gọi là tuần lễ “Rājāyatanasattāha”.
Như vậy, Đức-Phật đã an hưởng pháp vị an- lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ, gồm có 49 ngày xung quanh cội Đại-Bồ-đề.
Cúng dường vật thực đầu tiên lên Đức-Phật
Sau khi Đức-Phật Gotama an hưởng pháp vị an-lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ gồm có 49 ngày đêm xong, Đức-Phật ngự đến ngồi dưới một cội cây. Khi ấy, hai anh em lái buôn tên Tapussa và Bhallika dẫn đoàn xe bò 500 chiếc đi ngang qua, một thiên-nữ trong kiếp quá-khứ đã từng là mẹ của hai anh em lái buôn hiện ra, báo cho hai anh em lái buôn biết rằng:
– Này hai con! Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian rồi, Đức-Phật an hưởng pháp vị an-lạc suốt 7 tuần lễ gồm có 49 ngày qua, chưa độ vật thực.
Vậy, hai con là người đầu tiên đem vật thực đến cúng dường lên Đức-Phật.
Nghe thiên-nữ báo tin như vậy, hai anh em vô cùng hoan hỷ đem vật thực ngon lành đến đảnh lễ, rồi cúng dường lên Đức-Phật Gotama.
Đức-Phật Gotama thọ nhận vật thực của hai anh em lái buôn đầu tiên. Sau khi Đức-Phật Gotama độ vật thực và độ nước xong, hai anh em đảnh lễ Đức-Phật, kính xin thọ phép quy-y Nhị-bảo rằng:
“Ete mayaṃ Bhante, Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, upāsake no Bhagavā dhāretu. Ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con thành kính xin quy y nơi Đức-Thế-Tôn và xin quy y nơi Đức-Pháp-bảo.
– Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận hai chúng con là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy y Nhị-bảo kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Hai anh em Tapussa và Bhallika là hai cận- sự-nam (upāsaka) đã quy y Nhị-bảo đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Hai anh em Tapussa và Bhallika kính xin Đức-Phật ban cho báu vật để tôn thờ. Đức-Phật Gotama ban 8 sợi tóc gọi là 8 sợi xá-lợi tóc cho hai anh em lái buôn thỉnh về tôn thờ (nay 8 sợi xá-lợi tóc được tôn thờ trong ngôi bảo tháp lớn Shwê-đa-gôn tại Yangon, thủ đô nước Myanmar).
Đức-Phật suy tư về pháp siêu-tam-giới
Đức-Phật suy xét về 9 pháp siêu-tam-giới (lokuttaradhamma) mà Đức-Phật đã chứng đắc:
* 4 Thánh-đạo (Ariyamagga) là pháp diệt tận mọi phiền-não.
* 4 Thánh-quả (Ariyaphala) là pháp làm vắng lặng mọi phiền-não.
* 1 Niết-bàn là pháp giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
9 pháp siêu-tam-giới này là pháp của bậc Thánh-nhân mà thôi. Còn chúng-sinh phàm- nhân làm tôi tớ của 108 loại tham-ái và làm nô lệ 1.500 loại phiền-não đang bị dính mắc trong ngũ-dục, bị say mê trong ngũ-dục, bị đắm chìm trong ngũ-dục, thì khó mà chứng ngộ được chân- lý tứ Thánh-đế, khó mà chứng đắc được 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn là 9 pháp siêu-tam-giới.
Đức-Thế-Tôn suy nghĩ rằng:
“Nếu Như-Lai thuyết pháp mà chúng-sinh không hiểu rõ chánh-pháp, không thực-hành đúng theo chánh-pháp, không chứng đắc pháp siêu-tam-giới cao thượng, thì chỉ làm cho Như- Lai vất vả, mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi.”
Vì vậy, Đức-Phật chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Theo lệ thường, Chư Phật thuyết pháp cần phải có đầy đủ 2 điều kiện:
1- Chủ thể: Đức-Phật có tâm đại-bi (mahā- karuṇā) muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát mọi cảnh khổ. Điều kiện này đã sẵn có nơi Đức-Phật.
2- Khách thể: Vị Đại-Phạm-thiên thỉnh cầu Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Đó là điều kiện làm cho chúng-sinh phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, bởi vì các đạo-sĩ, sa-môn, bà-la-môn, vua chúa, dân chúng, chư-thiên đều tôn kính Đại-Phạm-thiên. Nay, Đại-Phạm-thiên tôn kính Đức-Phật, kính thỉnh cầu Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh, thì ắt hẳn phần đông chúng-sinh nhân-loại, vua chúa, đạo-sĩ, sa-môn, bà-la-môn, chư vị thiên- nam, vị thiên-nữ, chư phạm-thiên, … cũng đều tôn kính Đức-Phật.
Do đại-thiện-tâm tôn kính ấy, chúng-sinh mới có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật- bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, cho nên khi Đức-Phật thuyết pháp thì tất cả chúng-sinh, nhân-loại, vua chúa, đạo-sĩ, sa-môn, bà-la-môn, chư vị thiên- nam, vị thiên-nữ, chư phạm-thiên, … mới lắng nghe chánh-pháp, rồi thực-hành đúng theo chánh-pháp của Đức-Phật.
Đại-Phạm-thiên thỉnh Đức-Phật thuyết pháp
Biết Đức-Phật Gotama đang còn do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh, nên vị Đại- Phạm-thiên Sahampati bèn thông báo cho toàn thể phạm-thiên, chư thiên khắp mười ngàn cõi- giới chúng-sinh hay biết rằng:
– Nassati vata Bho loko!
– Vinassati vata Bho loko!
– Này chư vị! Toàn cõi-giới chúng-sinh bị bất lợi!
– Này chư vị! Toàn cõi-giới chúng-sinh bị thiệt hại!
Bởi vì, Đức-Phật Gotama đang do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng chư-thiên, chư phạm-thiên khắp mười ngàn cõi- giới hiện xuống kính lễ Đức-Thế-Tôn, đồng kính thỉnh rằng:
– Desetu Bhante Bhagavā dhammaṃ.
– Desetu Sugato dhammaṃ.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tất cả chúng con hết lòng thành kính cung thỉnh Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
– Kính bạch Đức-Thiện-Ngôn, tất cả chúng con hết lòng thành kính cung thỉnh Đức-Thiện- Ngôn có tâm đại-bi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Có số chúng-sinh nào phiền-não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Nếu số chúng-sinh ấy không có cơ hội lắng nghe chánh- pháp của Đức-Thế-Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao biết dường nào!
Nghe lời thỉnh cầu của vị Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng chư-thiên, chư phạm-thiên, Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi suy xét bằng Phật- nhãn (Buddhacakkhu) thấy rõ, biết rõ có số chúng-sinh có phiền-não nhẹ, có số chúng-sinh có phiền-não nặng, có số chúng-sinh có 5 pháp- chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ đủ năng lực, có số chúng-sinh có 5 pháp-chủ ít năng lực, có số chúng-sinh dễ dạy, có số chúng-sinh khó dạy.
Ví như 4 đóa hoa sen:
1- Có số đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời liền nở ngay ngày hôm ấy.
2- Có số đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau.
3- Có số đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian 3 hoặc 4 hôm nữa mới nở được.
4- Có số đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non ấy sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá, …
4 loại đoá hoa sen này được so sánh như 4 hạng người ở trong đời:
1- Ugghāṭitaññū: Hạng người có trí-tuệ bậc thượng, bén nhạy khi được nghe tiền đề của chánh-pháp, chưa cần khai triển, hay trong một bài kệ có 4 câu, chỉ nghe 2 câu đầu, hạng người có trí-tuệ bậc thượng ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, ngay khi ấy.
2- Vipañcitaññù: Hạng người có trí-tuệ bậc trung khi được nghe tiền đề của chánh-pháp và khai triển, hay được nghe một bài kệ đầy đủ 4 câu, hạng người có trí-tuệ bậc trung ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, ngay sau đó.
3- Neyya: Hạng người có trí-tuệ bậc hạ khi được nghe tiền đề của chánh-pháp và khai triển xong, còn cần phải có thời gian thân cận gần gũi với bậc Thánh-nhân, bậc thiện-trí hướng dẫn chỉ dạy thêm, hạng người có trí-tuệ bậc hạ ấy mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trong kiếp hiện-tại này.
4- Padaparama: Hạng người có trí-tuệ kém dù được nghe nhiều, học nhiều đi nữa hoặc có thân cận với bậc thiện-trí, người có trí-tuệ kém ấy cũng chưa có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn, trong kiếp hiện-tại này. Nhưng đây là một cơ hội tốt, một dịp may, để bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trong kiếp vị-lai.
Đức-Phật xem xét tất cả chúng-sinh bằng Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ có 4 hạng người trong đời như vậy, cho nên, sự thuyết pháp của Đức-Phật sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho 3 hạng người trước có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn ngay trong kiếp hiện-tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama) trong kiếp vị-lai.
Vì vậy, Đức-Phật nhận lời thỉnh cầu của vị Đại-Phạm-thiên Sahampati, Đức-Phật sẽ thuyết pháp tế độ chúng-sinh. Đức-Phật dạy rằng: – Này Đại-Phạm-thiên Sahampati! Trước đây chưa có đủ điều kiện nên Như-Lai chưa thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
– Này Đại-Phạm-thiên Sahampati! Bây giờ, Như-Lai nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Như- Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Khi biết Đức-Thế-Tôn đã nhận lời thỉnh cầu, nên vị Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng toàn thể chư-thiên, chư phạm-thiên vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cõi- giới của mình.
Thật ra, trong đời này, chỉ có Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót và chư Bồ-tát Độc- Giác kiếp chót mới không cần lắng nghe chánh- pháp từ một vị thầy nào, mà tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trong toàn cõi-giới chúng-sinh, hoặc trở thành Đức-Phật Độc-Giác mà thôi.
Ngoài Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót và chư Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót ra, còn tất cả chư Bồ-tát thanh-văn-giác bậc nào cũng đều cần phải lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi thực-hành theo pháp-hành thiền-tuệ mới có thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chứng đắc như sau:
– Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền- não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
– Chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất- lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
– Chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
– Chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội- lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anot- tappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Được trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật bậc nào là hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi bậc Thánh-nhân.
Thật vậy, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, Ngài Đại Trưởng-lão Sāriputta là bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác xuất sắc bậc nhất về trí-tuệ, trong hàng Thánh thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật. Vậy mà khi Ngài còn là tu-sĩ Upatissa đệ-tử của vị đạo-sư Sañcaya, Ngài không thể chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, cho đến khi tu-sĩ Upatissa lắng nghe Ngài Đại- Trưởng-lão Assaji thuyết dạy một bài kệ gồm 4 câu, vừa nghe 2 câu đầu, tu-sĩ Upatissa liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Vì vậy, gọi là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên
Đức-Phật Gotama suy xét nên thuyết pháp tế độ cho ai đầu tiên, Đức-Phật liền nghĩ đến vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta là bậc thiện-trí có trí-tuệ, nếu vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta được nghe chánh-pháp thì sẽ nhanh chóng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.
Khi ấy, chư-thiên đến hầu Đức-Phật và bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch được 7 ngày qua.
Đức-Phật xem xét thấy đúng vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch, đệ tam thiền vô-sắc- giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Vô-sở-hữu-xứ-thiên.
Đức-Phật suy nghĩ rằng:
“Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”
Tiếp đến, Đức-Phật nghĩ đến vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta là bậc thiện-trí có trí-tuệ, nếu vị Đạo- sư Udaka Rāmaputta được nghe chánh-pháp thì sẽ nhanh chóng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.
Khi ấy, chư-thiên đến hầu Đức-Phật và bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta vừa mới viên tịch chiều hôm qua.
Đức-Phật xem xét, thấy đúng vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta đã viên tịch, đệ tứ thiền vô- sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên tầng trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên.
Đức-Phật nghĩ rằng:
“Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”
Tiếp đến, Đức-Phật nghĩ đến nhóm 5 tỳ-khưu đã từng phụng sự, hộ độ cho Đức-Phật trong suốt thời gian còn là Đức-Bồ-tát Siddhattha thực-hành pháp khổ-hạnh. Đức-Phật nghĩ rằng:
“Vậy, Như-Lai nên thuyết pháp tế độ nhóm 5 tỳ-khưu này đầu tiên.”
Khi ấy, nhóm 5 tỳ-khưu đang trú tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī. Đức-Phật từ khu rừng Uruvelā ngự đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana ấy, để thuyết pháp tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.
Đức-Phật thuyết Kinh Chuyển-Pháp-Luân
Đức-Phật Gotama ngự đi đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, nhằm vào ngày rằm tháng 6, sau khi trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác tròn đúng hai tháng.
Nhóm 5 tỳ-khưu nhìn thấy Đức-Phật Gotama từ xa đi đến, họ nghĩ lầm rằng:
“Sa-môn Gotama đã từ bỏ sự tinh-tấn thực- hành pháp khổ-hạnh để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà trở lại đời sống sung túc.”
Vì nghĩ sai như vậy, nên nhóm 5 tỳ-khưu không còn đức-tin và sự kính trọng Đức-Phật như trước, họ đồng ý thỏa thuận với nhau rằng:
“Chúng ta không đứng dậy đón rước, không tiếp nhận y và bát, không đảnh lễ, chỉ nên sắp đặt chỗ để cho Sa-môn Gotama ngồi mà thôi.”
Nhưng khi Đức-Phật Gotama ngự đi đến gần, do oai lực và tâm đại-bi của Đức-Phật, nhóm 5 tỳ-khưu không còn nhớ lời giao ước, mà mỗi người đều tự động đứng dậy cung kính đón rước. Vị nhận y bát, vị lấy nước rửa chân, vị thì sắp đặt trải chỗ ngồi cao quí, thỉnh Đức-Phật ngự đến ngồi chỗ cao quý ấy. Nhưng cách xưng hô của họ đối với Đức-Phật vẫn bằng cách gọi “Āvuso” không hợp lẽ đạo, thiếu sự cung kính đối với Đức-Phật Gotama.
Nghe vậy, Đức-Phật dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Các con không nên gọi Như-Lai bằng tiếng Āvuso” (1) . Như-Lai là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, Như-Lai sẽ thuyết pháp giảng dạy chánh-pháp mà Như-Lai đã chứng ngộ. Các con hãy lắng nghe chánh-pháp, rồi thực-hành theo chánh-pháp, các con cũng sẽ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Như-lai, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, y theo Như-Lai đã chứng đắc.
Nhóm 5 tỳ-khưu vẫn chưa tin theo lời dạy của Đức-Phật, vì nghĩ rằng:
“Trước kia Sa-môn Gotama thực-hành pháp- khổ-hạnh đến như thế, mà không trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác. Nay, Sa-môn Gotama trở lại đời sống sung túc như vậy, có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác được hay sao?”
Thấu hiểu rõ sự hoài-nghi của nhóm 5 tỳ- khưu, nên Đức-Thế-Tôn đã giải thích làm cho nhóm 5 tỳ-khưu hiểu rõ, không còn hoài-nghi nữa, cuối cùng, họ hết lòng tôn kính Đức-Phật và phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật.
Khi ấy, mặt trời sắp lặn ở hướng Tây, mặt trăng ló dạng ở hướng Đông, lần đầu tiên Đức- Phật Gotama thuyết-pháp giảng giải bài kinh Dhammacakkappavattanasutta: (1) Kinh Chuyển- pháp-luân, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Đại- Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī.
(Toàn bài kinh Pāḷi và ý nghĩa bài kinh trong phần nội dung.)
Ngài Đại-Trưởng-Lão Aññāsikoṇḍañña
Sau khi lắng nghe Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân xong, trong nhóm 5 tỳ-khưu ấy chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama đầu tiên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Cho nên, Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña có pháp danh mới gọi là Aññāsikoṇḍañña (Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña đã chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế). Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia sa-di và tỳ-khưu.
Đức-Phật Gotama xem xét thấy Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña có đầy đủ phước- thiện phát sinh 8 thứ vật dụng cần thiết của tỳ- khưu do quả của phước-thiện phát sinh như thần thông, nên Đức-Phật cho phép xuất gia theo cách gọi “Ehi bhikkhu” truyền gọi rằng:
– Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo, cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.
– Này Aññāsikoṇḍañña! Con hãy lại đây, con trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, con hãy nên cố gắng tinh-tấn thực-hành phạm-hạnh cao thượng, để chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Ngay sau khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt câu, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña mất hình tướng cũ, liền trở thành vị tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu được thành tựu do quả của phước-thiện như thần thông.
Ngài Đại-Trưởng-Lão Aññāsikoṇḍañña là vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, có vẻ trang nghiêm như Ngài Đại- Trưởng-Lão có 60 hạ.
Ngay khi ấy, Tam Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian.
* Ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, chính là lúc Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo đồng thời xuất hiện trên thế gian. Nhưng Đức-Tăng-bảo chưa xuất hiện trên thế gian.
* Ngày rằm tháng 6