Quyển 10 – Pháp Hành Thiền Tuệ – Chương 5 – Sắc-Pháp, Danh-Pháp

Sắc-Pháp, Danh-Pháp

Đối-tượng thiền-tuệ đó là sắc-pháp (rūpadhamma), danh-pháp (nāmadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp, không phải là chế-định-pháp (paññattidhamma).

1- Rūpadhamma: Sắc-pháp

Rūpadhamma: Sắc-pháp là pháp có trạng-thái bị huỷ hoại do nóng, lạnh, đói, khát, …(ruppanalakkhaṇaṃ).

Rūpadhamma: Sắc-pháp gồm có 28 sắc-pháp, phân chia ra 2 loại:

– Mahābhūtarūpa: Sắc-tứ-đại có 4 sắc-pháp là sắc-địa-đại, sắc-thuỷ-đại, sắc-hoả-đại, sắc-phong-đại.

– Upādāyarūpa: Sắc-phụ-thuộc vào sắc-tứ-đại có 24 sắc-pháp.

Trong thân thể của mỗi người bình thường không bị bệnh tật khiếm khuyết, có đầy đủ 27 sắc-pháp:

– Nếu là người nam thì trừ ra sắc-nữ-tính.

– Nếu là người nữ thì trừ ra sắc-nam-tính.

– Nếu người nào bị mắt mù, bị tai điếc thì người ấy bị giảm số sắc-pháp theo bệnh tật ấy.

Phận sự của sắc-pháp

Rūpadhamma: Sắc-pháp có 2 phận sự:

1- Sắc-pháp có phận sự làm đối-tượng của tâm với tâm-sở hoặc là đối-tượng của danh-pháp. Sắc-pháp trong thân của chúng-sinh hoàn toàn không thể biết được đối-tượng, cũng không có cảm giác nào cả.

Sở dĩ, thân con người biết cảm giác nóng, lạnh, đói, khát, đau nhức, v.v… là do tâm với tâm-sở gọi là danh-pháp.

Nếu thân của con người không còn tâm với tâm-sở nương nhờ thì trở thành tử thi không biết cảm giác nóng, lạnh, đói, khát, đau nhức, v.v… nào nữa.

Thân của con người còn hơi thở vào, hơi thở ra, đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, v.v… gọi là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa) đều do tâm chủ động.

2- Sắc-pháp đó là 6 vatthurūpa trong thân con người có phận sự tiếp xúc với 6 đối-tượng, làm nơi nương nhờ để phát sinh tâm với tâm-sở hoặc danh-pháp.

Thật vậy, mắt đó là (cakkhupasādarūpa: Nhãn-tịnh-sắc) không thể nhìn thấy đối-tượng sắc, hình dạng nào cả, mà nhãn-tịnh-sắc tốt là nơi tiếp xúc của đối-tượng sắc, hình dạng, làm nơi nương nhờ để phát sinh nhãn-thức-tâm. Chính nhãn-thức-tâm mới có khả năng làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc, hình dạng ấy mà thôi.

Cũng như vậy, nhĩ-tịnh-sắc, tỷ-tịnh-sắc, thiệt-tịnh-sắc, thân-tịnh-sắc, hadayavatthurūpa sắc-pháp là nơi sinh của manoviññāṇa: Ý-thức-tâm, chỉ là những nơi tiếp xúc của đối-tượng riêng biệt của mỗi vatthurūpa mà thôi.

2- Nāmadhamma: Danh-pháp

Nāmadhamma: Danh-pháp là pháp có trạng-thái hướng tâm biết đối-tượng (nāmanalakkhaṇaṃ).

Nāmadhamma: Danh-pháp đó là citta: Tâm và cetasika: Tâm-sở.

– Citta: Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm.

– Cetasika: Tâm-sở gồm có 52 tâm-sở.

2.1- Citta: Tâm có trạng-thái biết đối-tượng (ārammaṇaṃ cintetī’ti cittaṃ).

Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm, phân chia theo cõi giới.

– Dục-giới-tâm gồm có 54 tâm.

– Sắc-giới-tâm gồm có 15 tâm.

– Vô-sắc-giới-tâm gồm có 12 tâm.

– Siêu-tam-giới-tâm gồm có 8 hoặc 40 tâm.

* Dục-giới-tâm gồm có 54 tâm như sau:

– Bất-thiện-tâm có 12 tâm.

– Vô-nhân-tâm có 18 tâm.

– Đại-thiện-tâm có 8 tâm.

– Đại-quả-tâm có 8 tâm.

– Đại-duy-tác-tâm có 8 tâm.

* Sắc-giới-tâm gồm có 15 tâm:

– Sắc-giới-thiện-tâm có 5 tâm.

– Sắc-giới-quả-tâm có 5 tâm.

– Sắc-giới-duy-tác-tâm có 5 tâm.

* Vô-sắc-giới-tâm gồm có 12 tâm:

– Vô-sắc-giới-thiện-tâm có 4 tâm.

– Vô-sắc-giới-quả-tâm có 4 tâm.

– Vô-sắc-giới-duy-tác-tâm có 4 tâm.

* Siêu-tam-giới tâm gồm có 8 hoặc 40 tâm.

– Siêu-tam-giới-thiện-tâm đó là Thánh-đạo-tâm có 4 hoặc 20 tâm.

– Siêu-tam-giới-quả-tâm đó là Thánh-quả-tâm có 4 hoặc 20 tâm.

Đối-tượng thiền-tuệ chỉ có 81 tam-giới-tâm mà thôi, bởi vì tam-giới-tâm này thuộc về khổ Thánh-đế là pháp nên biết (pariññeyyadhamma). Còn 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm không phải đối-tượng thiền-tuệ, bởi vì không phải là pháp nên biết.

2.2- Cetasika: Tâm-sở luôn luôn nương nhờ nơi tâm, không thể tách rời khỏi tâm với 4 trạng-thái:

– Đồng sinh với tâm (ekuppāda), khi tâm nào sinh thì ắt có số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy.

– Đồng diệt với tâm (ekanirodha), khi tâm nào diệt thì ắt có số tâm-sở đồng diệt với tâm ấy.

– Đồng đối-tượng với tâm (ekālambana), khi tâm nào biết đối-tượng nào thì ắt có số tâm-sở đồng biết đối-tượng ấy với tâm ấy.

– Đồng vatthurūpa nơi sinh với tâm (ekavatthuka), khi tâm nào nương nhờ vatthurūpa nào sinh thì ắt có số tâm-sở đồng nương nhờ vatthurūpa ấy sinh với tâm ấy.

Cetasika: Tâm-sở gồm có 52 tâm-sở, được phân loại như sau:

– Sabbacittasādharaṇacetasika: Đồng-sinh toàn-tâm tâm-sở, có 7 tâm-sở.

7 tâm-sở này đồng sinh với tất cả 89 hoặc 121 tâm.

– Pakiṇṇakacetasika: Đồng-sinh tùy-tâm tâm-sở, có 6 tâm-sở.

6 tâm-sở này đồng sinh tuỳ theo tâm, rải rác trong một số tâm, trừ 10 thức-tâm (2 nhãn-thức-tâm, 2 nhĩ-thức-tâm, 2 tỷ-thức-tâm, 2 thiệt-thức-tâm, 2 thân-thức-tâm).

– Akusalacetasika: Bất-thiện tâm-sở có 14 tâm-sở.

14 tâm-sở đồng sinh rải rác trong 12 bất-thiện-tâm.

– Sobhaṇasādharaṇacetasika: Đồng-sinh toàn-tâm tịnh-hảo tâm-sở, có 19 tâm-sở.

19 tâm-sở này đồng sinh với tất cả 59 hoặc 91 tịnh-hảo-tâm.

– Viratīcetasika: Chế-ngự-tâm-sở, có 3 tâm-sở.

3 tâm-sở này chỉ phát sinh riêng rẽ từng mỗi tâm-sở với 8 dục-giới thiện-tâm; nhưng 3 tâm-sở này chắc chắn đồng sinh cùng một lúc với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm.

Như vậy, 3 chế-ngự-tâm-sở này đồng sinh với 16 hoặc 48 tâm.

– Appamaññācetasika: Vô-lượng tâm-sở, có 2 tâm-sở.

2 tâm-sở này chỉ sinh riêng rẽ từng mỗi tâm-sở với 8 dục-giới thiện-tâm, 8 dục-giới duy-tác-tâm, 12 sắc-giới-tâm trừ ra 3 đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm.

Như vậy, vô-lượng-tâm-sở đồng sinh với 28 tâm.

– Paññindriyacetasika: Tuệ-chủ tâm-sở, có 1 tâm-sở.

Tuệ-chủ tâm-sở (trí-tuệ tâm-sở) đồng sinh với 4 dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 dục-giới quả-tâm hợp với trí-tuệ, 4 dục-giới duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 15 sắc-giới-tâm, 12 vô-sắc-giới-tâm, 8 hoặc 40 siêu-tam-giới tâm.

Như vậy, tuệ-chủ tâm-sở (trí-tuệ tâm-sở) này đồng sinh với 47 hoặc 79 tâm.

Phận sự của danh-pháp

Danh-pháp có 2 phận sự:

1- Danh-pháp làm phận sự chủ thể biết đối-tượng:

– Nhãn-thức-tâm nương nhờ cakkhuvatthurūpa làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc, hình dạng.

– Nhĩ-thức-tâm nương nhờ sotavatthurūpa làm phận sự nghe đối-tượng thanh, các loại âm thanh.

– Tỷ-thức-tâm nương nhờ ghānavatthurūpa làm phận sự ngửi đối-tượng hương, các thứ mùi.

– Thiệt-thức-tâm nương nhờ jivhāvatthurūpa làm phận sự nếm đối-tượng vị, các thứ vị.

– Thân-thức-tâm nương nhờ kāyavatthurūpa làm phận sự xúc giác đối-tượng xúc, cứng mềm, nóng lạnh, …

– Ý-thức-tâm nương nhờ hadayavatthurūpa làm phận sự biết các đối-tượng pháp: Tâm, tâm-sở, 5 tịnh-sắc, 16 sắc vi-tế, Niết-bàn và chế-định-pháp.

2- Danh-pháp làm phận sự đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ đối-tượng danh-pháp đúng theo thật-tánh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp.

Danh-pháp là đối-tượng thiền-tuệ đó là 81 tam-giới-tâm, 52 tâm-sở.

* Niết-bàn thuộc về pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) không bị cấu tạo bởi 4 nhân-duyên: Nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực; cũng thuộc về danh-pháp, nhưng thuộc loại danh-pháp đặc biệt chỉ làm đối tượng của siêu-tam-giới-tâm mà thôi.

Danh-pháp Niết-bàn chỉ là đối-tượng siêu-tam-giới của 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm mà thôi.

Phân biệt sắc-pháp, danh-pháp theo vatthurūpa

Sắc-pháp và danh-pháp phát sinh do nương nhờ nơi mỗi vatthurūpa như sau:

1- Cakkhuvatthurūpa: Khi đối-tượng rūpārammaṇa (đối-tượng sắc) tiếp xúc với cakkhuvatthurūpa đó là cakkhupasāda, phát sinh tâm cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm, có 2 tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc, hình dạng hiện-tại.

– Cakkhuvatthurūpa đó là cakkhupasādarūpa và rūpā-rammaṇa thuộc về sắc-pháp.

– Cakkhuviññāṇacitta thuộc về danh-pháp.

2- Sotavatthurūpa: Khi đối-tượng saddārammaṇa (đối-tượng thanh) tiếp xúc với sotavatthurūpa đó là sotapasāda, phát sinh tâm sotaviññāṇacitta: Nhĩ-thức-tâm, có 2 tâm làm phận sự nghe đối-tượng thanh, các âm thanh hiện-tại.

– Sotavatthurūpa đó là sotapasādarūpa và saddāram-maṇa thuộc về sắc-pháp.

– Sotaviññāṇacitta thuộc về danh-pháp.

3- Ghānavatthurūpa: Khi đối-tượng gandhārammaṇa (đối-tượng hương) tiếp xúc với ghānavatthurūpa đó là ghānapasāda, phát sinh tâm ghānaviññāṇacitta: Tỷ-thức-tâm, có 2 tâm làm phận sự ngửi đối-tượng hương, các thứ hương hiện-tại.

– Ghānavatthurūpa đó là ghānapasādarūpa và gandhā-rammaṇa thuộc về sắc-pháp.

– Ghānaviññāṇacitta thuộc về danh-pháp.

4- Jivhāvatthurūpa: Khi đối-tượng rasārammaṇa (đối-tượng vị) tiếp xúc với jivhāvatthurūpa đó là jivhā-pasāda, phát sinh tâm jivhāviññāṇacitta: Thiệt-thức-tâm, có 2 tâm làm phận sự nếm đối-tượng vị, các loại vị hiện-tại. – Jivhāvatthurūpa đó là jivhāpasādarūpa và rasāram-maṇa thuộc về sắc-pháp.

– Jivhāviññāṇacitta thuộc về danh-pháp.

5- Kāyavatthurūpa: Khi đối-tượng phoṭṭhabbāram-maṇa (đối-tượng xúc) tiếp xúc với kāyavatthurūpa đó là kāyapasāda, phát sinh tâm kāyaviññāṇacitta: Thân-thức-tâm, có 2 tâm làm phận sự xúc giác đối-tượng xúc, cứng mềm, nóng lạnh, căng phồng hiện-tại.

– Kāyavatthurūpa đó là kāyapasādarūpa và phoṭṭhab-bārammaṇa thuộc về sắc-pháp. – Kāyaviññāṇacitta thuộc về danh-pháp.

5- Hadayavatthurūpa: Khi đối-tượng dhammāram-maṇa (đối-tượng pháp) tiếp xúc với hadayavatthurūpa phát sinh các tâm manoviññāṇacitta: Ý-thức-tâm gồm có 75 tâm (trừ ra 10 thức-tâm và 4 vô-sắc-giới-quả-tâm) làm phận sự biết các đối-tượng pháp đó là tâm, tâm-sở, 5 tịnh-sắc, 16 sắc vi-tế trong 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai), Niết-bàn và chế-định-pháp ngoài 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai), bởi vì Niết-bàn, chế-định-pháp không có sự sinh, sự diệt.

– Hadayavatthurūpa và rūpadhammārammaṇa (đối-tượng sắc-pháp) thuộc về sắc-pháp.

– Nāmadhammārammaṇa (đối-tượng danh-pháp) đó là tâm, tâm-sở thuộc về danh-pháp.

– Niết-bàn thuộc về danh-pháp đặc biệt là đối-tượng siêu-tam-giới của 8 hoặc 40 siêu-tam-giới tâm.

– Chế-định-pháp không thuộc về sắc-pháp và danh-pháp nào cả.

– Manoviññāṇacitta có 75 tâm thuộc về danh-pháp.

Nhân-duyên phát sinh sắc-pháp, danh-pháp

Mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp phát sinh do hội đủ nhân-duyên, nếu thiếu nhân-duyên nào thì sắc-pháp, danh-pháp không thể phát sinh được.

Nhân-duyên phát sinh danh-pháp

Nhân-duyên phát sinh danh-pháp đối với các chúng-sinh trong tam-giới có sự khác nhau như sau:

* Danh-pháp đối với các chúng-sinh ở trong 11 cõi dục-giới (4 cõi ác-giới, cõi người, 6 cõi trời-dục-giới), những chúng-sinh có đầy đủ ngũ-uẩn, danh-pháp (tâm với tâm-sở) phát sinh cần phải nương nhờ nơi 3 pháp:

1- Atītakamma: Nghiệp quá-khứ, đó là ác-nghiệp hoặc dục-giới thiện-nghiệp quá-khứ.

2- Vatthurūpa: Nơi phát sinh tâm với tâm-sở, có 6 loại (Cakkhuvatthurūpa, Sotavatthurūpa, Ghānavatthurūpa, Jivhāvatthurūpa, Kāyavatthurūpa, Hadayavatthurūpa).

3- Ārammaṇa: Đối-tượng, đó là 6 đối-tượng (đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng hương, đối-tượng vị, đối-tượng xúc, đối-tượng pháp).

* Danh-pháp đối với các chư phạm-thiên ở trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên), chư phạm-thiên có đủ ngũ-uẩn, danh-pháp (tâm với tâm-sở) phát sinh cần phải nương nhờ nơi 3 pháp:

1- Atītakamma: Nghiệp quá-khứ, đó là sắc-giới thiện-nghiệp quá-khứ.

2- Vatthurūpa: Nơi phát sinh tâm với tâm-sở, chỉ sử dụng 3 loại (Cakkhuvatthurūpa, Sotavatthurūpa, Hadaya-vatthurūpa).

3- Ārammaṇa: Đối-tượng, chỉ có 3 đối-tượng (đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng pháp) mà thôi.

* Danh-pháp đối với các chư phạm-thiên ở trong 4 tầng trời vô-sắc-giới, chư phạm-thiên này chỉ có 4 uẩn là thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn mà thôi, không có sắc-uẩn, nên danh-pháp (tâm với tâm-sở) phát sinh chỉ cần phải nương nhờ nơi 2 pháp mà thôi:

1- Atītakamma: Nghiệp quá-khứ, đó là vô-sắc-giới thiện-nghiệp quá-khứ.

2- Ārammaṇa: Đối-tượng chỉ có 1 đối-tượng pháp.

Danh-pháp phát sinh do nương nhờ sắc-pháp

Danh-pháp đó là tâm với tâm-sở phát sinh do nương nhờ nơi sắc-pháp đó là nương nhờ nơi ārammaṇa: Đối-tượng và vatthurūpa: Nơi phát sinh tâm với tâm-sở.

Ví dụ: Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm phát sinh do nương nhờ nơi rūpārammaṇa: Đối-tượng sắc tiếp xúc với mắt cakkhupasādarūpa: Nhãn-tịnh-sắc.

Khi đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, do sự tiếp xúc ấy, nên phát sinh nhãn-thức-tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc ấy.

Cũng ví như “tiếng chuông” phát sinh do cái dùi chuông đánh đụng vào cái chuông.

Thật ra, trong dùi chuông không có tiếng chuông, và trong cái chuông cũng không có tiếng chuông. Sở dĩ, tiếng chuông phát sinh là do dùi chuông đụng vào cái chuông.

Cũng như vậy, khi đối-tượng sắc, hình dạng tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, do nhờ nhân-duyên tiếp xúc ấy, nên phát sinh nhãn-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ nhãn-tịnh-sắc, nên gọi là nhãn-thức-tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc ấy.

Nếu chỉ có riêng mắt (nhãn-tịnh-sắc) thì không thể nhìn thấy đối-tượng sắc được, và nếu chỉ có riêng tâm cũng không thể nhìn thấy đối-tượng sắc được.

Thật vậy, khi mở mắt mà tâm chăm chú đăm chiêu suy nghĩ sâu sắc về điều gì thuộc nội tâm, dù mở mắt vẫn không thấy rõ hình ảnh gì trước mắt; hoặc chỉ có tâm cũng không thể thấy được đối-tượng sắc, như khi nhắm mắt, bịt mắt, dù tâm muốn thấy hình ảnh gì cũng không thể thấy được, bởi vì, cả 2 trường hợp này không hội đủ nhân-duyên để phát sinh nhãn-thức-tâm, nên không thể thấy đối-tượng sắc được.

Để thấy đối-tượng sắc, hình dạng, thì chỉ có tâm phát sinh do nương nhờ nơi mắt (nhãn-tịnh-sắc) mà thôi, tâm ấy gọi là nhãn-thức-tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc ấy.

Vì vậy, mắt không thể thấy đối-tượng sắc, và tâm cũng không thể thấy đối-tượng sắc được, mà chỉ có nhãn-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ nơi nhãn-tịnh-sắc, làm phận sự thấy đối-tượng sắc, hình dạng mà thôi.

Ngoài nhãn-thức-tâm ra, người nam, người nữ, chúng-sinh, v.v… không có khả năng thấy đối-tượng sắc, hình dạng được.

Nhãn-thức-tâm có 2 tâm, ngoài 2 tâm này ra, không có tâm nào khác có khả năng làm phận sự thấy đối-tượng sắc được.

Tương tự như vậy, nếu chỉ có riêng tai (nhĩ-tịnh-sắc) thì không thể nghe đối-tượng thanh, âm thanh được, và nếu chỉ có riêng tâm cũng không thể nghe đối-tượng thanh âm thanh được.

Thật vậy, khi nằm ngủ say, tai không nghe biết được âm thanh nào, hoặc chỉ có tâm cũng không thể nghe được âm thanh, như khi bịt kín 2 tai lại, dù tâm muốn nghe âm thanh gì cũng không thể nghe được, bởi vì, cả 2 trường hợp này không hội đủ nhân-duyên để phát sinh nhĩ-thức-tâm, nên không thể nghe đối-tượng thanh được.

Để nghe đối-tượng thanh, âm thanh thì chỉ có tâm phát sinh do nương nhờ nơi tai (nhĩ-tịnh-sắc) mà thôi, tâm ấy gọi là nhĩ-thức-tâm làm phận sự nghe đối-tượng thanh ấy.

Vì vậy, tai không thể nghe đối-tượng thanh, và tâm cũng không thể nghe đối-tượng thanh được, mà chỉ có nhĩ-thức-tâm làm phận sự nghe đối-tượng thanh, âm thanh mà thôi.

Ngoài nhĩ-thức-tâm ra, người nam, người nữ, chúng-sinh,… không thể nghe đối-tượng thanh, âm thanh được.

Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm, ngoài 2 tâm này ra, không có tâm nào khác có thể làm phận sự nghe đối-tượng thanh, âm thanh được.

Người ta nói “mắt thấy, tai nghe,…” nhưng sự thật, mắt không thể thấy, tai không thể nghe, hoặc ta không thể thấy, ta không thể nghe, người không thể thấy, người không thể nghe, v.v… mà nên hiểu biết đúng thật-tánh của chân-nghĩa-pháp, chỉ có nhãn-thức-tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc, hình dạng, nhĩ-thức-tâm làm phận sự nghe đối-tượng thanh, âm thanh mà thôi.

Tương tự như vậy, 2 tỷ-thức-tâm, 2 thiệt-thức-tâm, 2 thân-thức-tâm, 75 ý-thức-tâm đều làm phận sự theo khả năng của mỗi tâm.

Sắc-pháp phát sinh do nương nhờ danh-pháp

Sắc-pháp trong thân thể của mỗi chúng-sinh phát sinh do nương nhờ nơi danh-pháp (tâm). Ví dụ:

Iriyāpathapabba: Tứ-oai-nghi

Trong kinh Đại-Niệm-Xứ Mahāsatipaṭṭhānasutta, phần Iriyāpathapabba: Phần tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm, và Samajāna-pabba các oai-nghi phụ như bước tới, bước lui, quay bên phải, quay bên trái, co tay, co chân, duỗi tay, duỗi chân, v.v… đều là những sắc-pháp phát sinh do tâm (danh-pháp), gọi là (cittajarūpa).

Nhân-duyên phát sinh 4 oai-nghi

Trong Chú-giải bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta, phần Iriyāpathapabba giảng giải về nhân-duyên phát sinh 4 oai-nghi như sau:

4 oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).

1-“Oai-nghi đi”gọi là “thân đi” hoặc “sắc-đi” là sắc-pháp phát sinh do tâm, qua quá trình diễn biến liên tục do nhiều nhân-duyên như sau:

– Tâm nghĩ “đi”.

– Do tâm nghĩ đi làm cho phát sinh chất gió.

– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.

– Toàn thân di chuyển bước đi từng bước do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy (cittakiriyavāyodhātu-vipphārena sakalakāyassa purato abhinīhāro gamanan’ti vuccati).

Do đó, gọi là “thân đi” hoặc “sắc-đi” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).

2-“Oai-nghi đứng” gọi là “thân đứng” hoặc “sắc-đứng” là sắc-pháp phát sinh do tâm, qua quá trình diễn biến liên tục do nhiều nhân-duyên như sau:

– Tâm nghĩ “đứng”.

– Do tâm nghĩ đứng làm cho phát sinh chất gió.

– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.

– Toàn thân từ chân đến đầu đứng yên một chỗ theo mỗi dáng đứng, tư thế đứng yên, do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.

Do đó, gọi là “thân đứng” hoặc “sắc-đứng” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).

3- “Oai-nghi ngồi” gọi là “thân ngồi” hoặc “sắc-ngồi” là sắc-pháp phát sinh do tâm, qua quá trình diễn biến liên tục do nhiều nhân-duyên như sau:

– Tâm nghĩ “ngồi”.

– Do tâm nghĩ ngồi làm cho phát sinh chất gió.

– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.

– Toàn thân ngồi: Thân phần trên ngồi yên, thân phần dưới co theo mỗi dáng ngồi, tư thế ngồi yên, do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.

Do đó, gọi là “thân ngồi” hoặc “sắc-ngồi” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).

4-“Oai-nghi nằm” gọi là “thân nằm” hoặc “sắc-nằm” là sắc-pháp phát sinh do tâm, qua quá trình diễn biến liên tục do nhiều nhân-duyên như sau:

– Tâm nghĩ “nằm”.

– Do tâm nghĩ nằm làm cho phát sinh chất gió.

– Chất gió phát sinh do tâm ấy làm cho toàn thân cử động.

– Toàn thân nằm ngang theo mỗi dáng nằm, mỗi tư thế nằm yên, do năng lực của chất gió phát sinh do tâm ấy.

Do đó, gọi là “thân nằm” hoặc “sắc-nằm” là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).

Nếu trường hợp thiếu nhân-duyên nào thì sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm không thể phát sinh được. Ví như người bị bại liệt, dù tâm muốn đi, muốn đứng, muốn ngồi, muốn nằm, v.v… với tư thế này hoặc tư thế kia cũng không thể đi, đứng, ngồi, nằm, v.v… theo ý muốn của mình được, bởi vì chất gió phát sinh do tâm không đủ năng lực làm cho toàn thân đất, nước nặng nề cử động theo ý của họ được.

Sở dĩ con người bình thường khỏe mạnh đi, đứng, ngồi, nằm, v.v… cử động được dễ dàng là do nhờ năng lực của chất gió phát sinh do tâm có khả năng điều hoà được tứ đại, đất, nước, lửa, gió trong thân thể của họ.

Đức Phật dạy: “Thân” này ví như một chiếc xe, “tâm” này ví như người lái xe.

Chiếc xe chạy mau, chạy chậm, rẽ trái, rẽ phải, ngừng lại, v.v… đều do người lái xe điều khiển.

Cũng như vậy, thân này đi, đứng, ngồi, nằm, bước tới, bước lui, quay bên phải, quay bên trái, co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra, v.v… đều do tâm điều khiển.

Vì vậy, gọi là sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa).

Sắc-đi, sắc-đứng, sắc-ngồi, sắc-nằm, v.v… được phát sinh do nhiều nhân-duyên, nên là pháp-vô-ngã.

Vai trò quan trọng của danh-pháp, sắc-pháp

Sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có vai trò tối ư quan trọng trong pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

Thật vậy, pháp-hành thiền-tuệ có 16 loại trí-tuệ thiền-tuệ, mà trí-tuệ đầu tiên gọi là nāmarūpapariccheda-ñāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân tích rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là pháp-vô-ngã, không phải ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh này, chúng-sinh kia, vật này, vật kia, v.v… mà chỉ là sắc-pháp, danh-pháp mà thôi.

Những trí-tuệ thiền-tuệ tiếp theo cũng đều có sắc-pháp, danh-pháp làm đối-tượng, để trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ tội chướng của sắc-pháp, của danh-pháp; trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán sắc-pháp, danh-pháp; trí-tuệ thiền-tuệ muốn giải thoát ra khỏi sắc-pháp, danh-pháp, v.v…

Cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 12 gọi là saccā-nulomañāṇa có khả năng buông bỏ được đối-tượng sắc-pháp hoặc danh-pháp tam-giới tiếp đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhuñāṇa tiếp nhận đối-tượng danh-pháp Niết-bàn siêu-tam-giới, tiếp theo trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 và 15 gọi là Maggañāṇa và Phalañāṇa đều có đối-tượng danh-pháp Niết-bàn siêu-tam-giới.

Vì vậy, sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp có vai trò tối ư quan trọng trong pháp-hành thiền-tuệ.

Cho nên, hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, điều trước tiên cần phải học hỏi, hiểu biết rõ rành rẽ, phân biệt rõ về mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp như thế nào thuộc về chế-định-pháp (pañ-ñattidhamma) và như thế nào thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma). Đó là điều tối ư quan trọng trước tiên của hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Ví dụ như người đọc sách, điều quan trọng là có chữ để đọc, người đọc cần phải học hỏi hiểu biết mỗi phụ âm, mỗi nguyên âm, biết cách ráp vần thành chữ để đọc, rồi hiểu biết rõ ý nghĩa từng chữ, từng câu, mới hiểu biết từng đọan, hiểu được giá trị quyển sách ấy.

Cũng như vậy, hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ rành rẽ, phân biệt rõ về mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp như thế nào thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma) và như thế nào thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), bởi vì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) mới là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

Đó là điều tối ư quan trọng trước tiên đối với hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Phiền-não nương nhờ nơi sắc-pháp, danh-pháp

Tất cả mọi phiền-não nhất là tà-kiến (diṭṭhi), tham-ái (taṇhā), ngã-mạn (māna) đều nương nhờ nơi sắc-pháp, danh-pháp mà phát sinh.

1- Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp

Trong đời này, một số người không gần gũi thân cận với chư bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không có cơ hội nghe chánh-pháp, không học hỏi hiểu biết về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), không hiểu biết về môn Abhidhamma: Vi-diệu-pháp, nên không hiểu biết về sắc-pháp, danh-pháp, không thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, không thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là pháp-vô-ngã.

Tà-kiến đó là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến (diṭṭhigatasampa-yuttaṃ) thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là ta, là ngã.

* Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi danh-pháp, nơi sắc-pháp cho là ta, là ngã như sau:

– Nếu khi nhãn-thức-tâm thấy đối-tượng sắc, hình dạng thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “nhãn-thức-tâm” cho là “ta thấy” và tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng sắc ấy cho là “người này, hoặc người kia, hoặc chúng-sinh, hoặc vật này hoặc vật kia,…”

– Nếu khi nhĩ-thức-tâm nghe đối-tượng thanh, âm thanh thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “nhĩ-thức-tâm” cho là “ta nghe” và tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng âm thanh ấy cho là “tiếng nói người nam, hoặc tiếng nói người nữ, hoặc tiếng Việt, hoặc tiếng Anh, tiếng Pháp,…”

– Nếu khi tỷ-thức-tâm ngửi đối-tượng hương, các loại mùi thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “tỷ-thức-tâm” cho là “ta ngửi” và tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng hương ấy cho là “mùi thơm nước hoa, hoặc mùi hôi tử thi,…”

– Nếu khi thiệt-thức-tâm nếm đối-tượng vị, các thứ vị thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “thiệt-thức-tâm” cho là “ta nếm” và tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng vị ấy cho là “vị ngọt của đường, hoặc vị chua của chanh ,…”

– Nếu khi thân-thức-tâm tiếp xúc với đối-tượng xúc, cứng mềm, nóng lạnh,… thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “thân-thức-tâm” cho là “ta xúc giác” và tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi đối-tượng xúc ấy cho là “sắt cứng, vải mềm, hoặc trời nóng, trời lạnh,…” – Nếu khi ý-thức-tâm biết đối-tượng sắc-pháp, thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “ý-thức-tâm” cho là “ta biết đối-tượng ấy”.

– Nếu khi ý-thức-tâm biết đối-tượng danh-pháp thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi chủ thể “ý-thức-tâm” cho là “ta biết các điều ấy”.

– Nếu có “tham-tâm” phát sinh thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi tham-tâm ấy cho là “ta tham”, …

– Nếu có “sân-tâm” phát sinh thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sân-tâm ấy cho là “ta sân”, …

– Nếu có “tâm-sở phóng-tâm” phát sinh thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi phóng-tâm tâm-sở ấy cho là “ta phóng tâm”, v.v…

* Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp cho là ta, là ngã như sau:

– Nếu khi thân đi hoặc sắc-đi thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-đi ấy cho là “ta đi”.

– Nếu khi thân đứng hoặc sắc-đứng thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-đứng ấy cho là “ta đứng”.

– Nếu khi thân ngồi hoặc sắc-ngồi thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-ngồi ấy cho là “ta ngồi”.

– Nếu khi thân nằm hoặc sắc-nằm thì tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-nằm ấy cho là “ta nằm” v.v…

Như vậy, có rất nhiều “cái ta”.

Ta có thật hay không ?

Đức Phật dạy rằng:

“Sabbe dhammā anattā…”

Tất cả các pháp-hữu-vi, các pháp-vô-vi đều là pháp-vô-ngã.

– Pháp-hữu-vi đó là sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự tánh (dhātu), v.v… là pháp-vô-ngã.

– Pháp-vô-vi đó là Niết-bàn gồm cả chế-định-pháp cũng là pháp-vô-ngã.

Thật vậy, Đức-Phật dạy:

“Aniccā sbbe saṅkhārā, dukkhānattā ca saṅkhatā.

Nibbānañceva paññatti, anattā iti nicchayā.”

Tất cả các pháp-hữu-vi,

Là sắc-pháp, danh-pháp,

Đều có đủ ba trạng-thái,

Vô-thường, khổ, vô-ngã.

Niết-bàn và chế-định-pháp,

Đều thuộc về pháp-vô-ngã.

Sắc-pháp, danh-pháp là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, không phải ai cả,…

Nếu có cái ta thật, có cái ngã thật thì cái ta nào, cái ngã nào gọi là ta thật sự ?

Đúng theo thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp đều là pháp-vô-ngã, cho nên không có cái ngã, không có cái ta thật sự.

Nếu không có cái ta thật, không có cái ngã thật thì cũng không có phương pháp diệt ngã được!

Vậy, gọi là “cái ngã, cái ta” do đâu mà có?

Sở dĩ có sự chấp thủ cho là “ta” là “ngã”, là vì có tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là “ngã” là “ta”.

Như vậy, tà-kiến có thật sự.

Trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Bộ Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa, chương 1 Cittasaṅgaha và chương 2 Cetasikasaṅgaha trình bày phần bất-thiện-tâm và phần bất-thiện tâm-sở giảng giải như sau:

Tà-kiến (diṭṭhi) đó là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến (diṭṭhigatasam-payuttacitta) thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là ta, là ngã, v.v…

* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niêt-bàn, chính Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận (samucchedappahāna) được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót.

Như vậy, Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi tâm-sở đồng sinh với 1 si-tâm hợp với hoài-nghi. Bậc Thánh-Nhập-lưu đã diệt tận được 5 bất-thiện-tâm này không còn dư sót. Chỉ còn lại 7 bất-thiện-tâm chưa diệt được.

Cho nên bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là “ngã” là “ta”, là người, người nam, người nữ, chúng-sinh nào nữa.

2- Tham-ái nương nhờ nơi sắc-pháp, danh-pháp

Tham-ái (taṇhā) đó là tham-tâm-sở (lobhacetasika) đồng sinh với 8 tham-tâm (lobhacitta) nương nhờ nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp mà phát sinh.

Tham-tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm (lobhacitta) chắc chắn có si-tâm-sở (mohacetasika) nên không biết chân-lý tứ Thánh-đế: Khổ Thánh-đế, nhân sinh khổ Thánh-đế, diệt khổ Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế; không biết thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp; không biết sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp; không biết 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp; không biết sắc-pháp, danh-pháp chỉ có khổ thật sự mà thôi.

Vì vậy, tham-ái hài lòng, thoả thích, say mê trong sắc-pháp, danh-pháp, bởi cho là tốt đẹp, đem lại sự lợi ích, sự an-lạc.

Sở dĩ tham-ái say mê trong sắc-pháp, danh-pháp cho là tốt đẹp, đem lại sự lợi ích, sự an-lạc, là vì không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là khổ đế; không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ khi chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ mới có khả năng diệt tận được tâm tham-ái không còn dư sót nữa.

Như vậy, chỉ có bậc Thánh A-ra-hán mới không còn tâm tham-ái mà thôi.

3- Ngã-mạn nương nhờ nơi sắc-pháp, danh-pháp

Ngã-mạn (māna) đó là ngã-mạn tâm-sở (māna-cetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến (diṭṭhigatavippayutta). Ngã-mạn tâm-sở nương nhờ sắc-pháp, danh-pháp mà phát sinh tự cho là: “Ta hơn người, ta bằng người, ta kém thua người”.

Sở dĩ tâm ngã-mạn tự cho là “ta hơn người, ta bằng người, ta kém thua người” là vì không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là vô-thường; không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp; không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

* Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ khi chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ mới có khả năng diệt tận được tâm ngã-mạn không còn dư sót nữa. Như vậy, chỉ có bậc Thánh A-ra-hán mới không còn tâm ngã-mạn mà thôi.

Tà-kiến thấy sai tự làm khổ mình, khổ người

Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, danh-pháp cho rằng: “Ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh, vật này, vật kia, v.v…” nên tham-ái phát sinh, tâm ngã-mạn phát sinh, và các tâm phiền-não khác cũng có cơ hội phát sinh, tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình khổ người.

Ví dụ: Ban đêm, một người đi đường nhìn thấy lờ mờ sợi dây ngoằn ngoèo giống như con rắn nằm giữa đường, người ấy nhìn thấy sợi dây ấy, thấy sai, chấp lầm, tưởng lầm cho là “con rắn độc” nên phát sinh tâm sợ hãi tự làm khổ mình, lại còn nói cho người khác nghe, làm cho người khác khổ nữa.

Cũng như vậy trong đời này, số người là người si-mê bị vô-minh che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, có tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là “ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh, vật này, vật kia, v.v…”. Vì vậy, mọi phiền-não có cơ hội phát sinh tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình khổ người không chỉ trong kiếp hiện-tại mà còn nhiều kiếp vị-lai nữa.

Chánh-kiến-thiền-tuệ không làm khổ mình, khổ người

Trong đời này, số người thường được gần gũi thân cận với bậc Thánh-nhân, bậc thiện-trí trong Phật-giáo, thường được lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, được học hỏi hiểu biết về môn học abhidhamma; vi-diệu-pháp, hiểu biết mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp, có cơ hội thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, có chánh-kiến thiền-tuệ thấy đúng, biết đúng thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là:

– Danh-pháp chỉ là danh-pháp.

– Sắc-pháp chỉ là sắc-pháp.

– Danh-pháp nương nhờ sắc-pháp.

– Sắc-pháp nương nhờ danh-pháp.

– Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, không phải vật này, vật kia, v.v… Tất cả các pháp đều là pháp-vô-ngã.

Bậc Thánh-thanh-văn có chánh-kiến-thiền-tuệ diệt tận được tà-kiến theo chấp ngã (attānudiṭṭhi) đồng thời diệt được mọi tà-kiến khác, nên không bao giờ tự làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình khổ người nữa.

Ví dụ: Ban đêm, một người đi đường, có người nói cho biết có sợi dây ngoằn ngoèo nằm giữa đường, người ấy tay cầm đèn chiếu ánh sáng, nhìn thấy sợi dây ấy chỉ là sợi dây, không hề phát sinh tâm sợ hãi, nên không tự làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình khổ người.

Cũng như vậy trong đời này, bậc Thánh Thanh-văn có chánh-kiến thiền-tuệ thấy đúng, biết đúng thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp là:

– Danh-pháp chỉ là danh-pháp.

– Sắc-pháp chỉ là sắc-pháp.

– Danh-pháp nương nhờ sắc-pháp.

– Sắc-pháp nương nhờ danh-pháp.

– Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã, nên không bao giờ tự làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình khổ người nữa.

Sắc-pháp, danh-pháp làm đối-tượng thiền-tuệ

Sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp sinh rồi diệt liên tục không ngừng, nên có 3 thời: Quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.

– Sắc-pháp, danh-pháp đã diệt rồi, thuộc về quá-khứ.

– Sắc-pháp, danh-pháp đang sinh, thuộc về hiện-tại.

– Sắc-pháp, danh-pháp chưa sinh, thuộc về vị-lai.

Sắc-pháp, danh-pháp thuộc về thời nào làm đối-tượng thiền-tuệ?

– Sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ đã sinh rồi đã diệt, nên không thể sử dụng làm đối-tượng thiền-tuệ được, bởi vì trí-tuệ thiền-tuệ không thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp quá-khứ ấy, và trí-tuệ thiền-tuệ cũng không thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp quá khứ ấy được.

Vì vậy, sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ không trực tiếp làm đối-tượng thiền-tuệ.

– Sắc-pháp, danh-pháp vị-lai chưa sinh, chưa diệt, nên không thể sử dụng làm đối-tượng thiền-tuệ được, bởi vì trí-tuệ thiền-tuệ không thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp vị-lai ấy, và trí-tuệ thiền-tuệ cũng không thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp vị-lai ấy được.

Vì vậy, sắc-pháp, danh-pháp vị-lai cũng không trực tiếp làm đối-tượng thiền-tuệ.

– Sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại đang sinh, đang diệt, nên có thể sử dụng làm đối-tượng thiền-tuệ được, bởi vì trí-tuệ thiền-tuệ có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại ấy, và trí-tuệ thiền-tuệ cũng có khả năng thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại ấy được.

Vì vậy, chỉ có sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại trực tiếp làm đối-tượng thiền-tuệ mà thôi.

Dĩ nhiên, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại có sự sinh, sự diệt, thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái-vô-ngã, thì trí-tuệ thiền-tuệ cũng có khả năng thấu triệt, thấu suốt được sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ cũng đã có sự sinh, sự diệt, cũng đã có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, cũng như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này.

Và trí-tuệ thiền-tuệ cũng có khả năng thấu triệt, thấu suốt được sắc-pháp, danh-pháp vị-lai cũng sẽ có sự sinh, sự diệt, cũng sẽ có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, cũng như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này.

Sắc-pháp, danh-pháp là pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mới có sự sinh, sự diệt, nên sắc-pháp, danh-pháp có 3 thời:

– Sắc-pháp, danh-pháp đã diệt thuộc về quá-khứ.

– Sắc-pháp, danh-pháp đang sinh rồi diệt thuộc về hiện-tại.

– Sắc-pháp, danh-pháp chưa sinh thuộc về vị-lai.

Niết-bàn (Nibbāna) là pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) tuy cũng thuộc về chân-nghĩa-pháp nhưng không có sự sinh, sự diệt thuộc về kālavimutti: Niết-bàn ngoài 3 thời, không có quá-khứ, hiện-tại, vị-lai. Và chế-định-pháp cũng thuộc về ngoài 3 thời, không có quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.

Sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại

Sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại có 4 loại:

1- Addhā paccuppanna: Kiếp hiện-tại là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp, kể từ khi tái-sinh cho đến khi ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp tan rã (chết) là khoảng thời gian hiện-tại của một kiếp hiện-tại.

2- Samaya paccuppanna: Buổi hiện-tại là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp lúc buổi sáng, lúc buổi trưa, lúc buổi chiều, lúc buổi tối, thời gian hiện-tại trong một buổi một lúc.

3- Santati paccuppanna: Liên tục hiện-tại là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp sinh rồi diệt liên tục không ngừng qua các lộ-trình-tâm (vīthicitta).

4- Khaṇa paccuppanna: Sát-na hiện-tại là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp ở sát-na-trụ (ṭhitikhaṇa).

Trong 4 loại hiện-tại này, addhā paccuppanna: Kiếp hiện-tại và samaya paccuppanna: Buổi hiện-tại, ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp có thời gian quá dài, nên không thể làm đối-tượng thiền-tuệ được, và khaṇa paccuppanna: Sát-na hiện-tại là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp có thời gian quá ngắn, nên cũng không thể làm đối-tượng thiền-tuệ được.

Chỉ có santati paccuppanna: Liên tục hiện-tại là ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp sinh rồi diệt liên tục không ngừng qua các lộ-trình-tâm (vīthicitta), có thời gian không quá dài, cũng không quá ngắn, nên có thể làm đối-tượng thiền-tuệ được.

Khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại sinh rồi diệt, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp. Lẽ dĩ nhiên, trí-tuệ thiền-tuệ hoàn toàn không có hoài-nghi về sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ, và sắc-pháp, danh-pháp vị-lai là thường, lạc, ngã nữa.

Cho nên, chắc chắn trí-tuệ thiền-tuệ cũng có khả năng thấu triệt, thấu suốt được sắc-pháp, danh-pháp quá-khứ đã sinh rồi đã diệt, nên đã có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, và sắc-pháp, danh-pháp vị-lai cũng sẽ sinh rồi sẽ diệt, cũng sẽ có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, cũng như sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại này.

Danh-pháp với sắc-pháp nương nhờ lẫn nhau phát sinh như sau:

– Danh-pháp phát sinh do nương nhờ sắc-pháp.

– Sắc-pháp phát sinh do nương nhờ danh-pháp.

– Danh-pháp phát sinh do nương nhờ danh-pháp.

Sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp

Sắc-pháp, danh-pháp là pháp-hữu-vi (saṅkhatadham-ma) bị cấu tạo bởi 4 nhân-duyên: Nghiệp (kamma), tâm (citta), thời-tiết (utu), vật-thực (āhāra), thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), nên sắc-pháp, danh-pháp có sự sinh, sự diệt liên tục không ngừng, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã.

Nibbāna: Niết-bàn là pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) cũng thuộc về danh-pháp đặc biệt, hoàn toàn khác với danh-pháp (tâm với tâm-sở), Niết-bàn không bị cấu tạo bởi 4 nhân-duyên: Nghiệp (kamma), tâm (citta), thời-tiết (utu), vật-thực (āhāra), cũng thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).

Niết-bàn và chế-định-pháp (paññattidhamma) đều không có sự sinh, sự diệt, nên không có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã.

Tuy nhiên Niết-bàn và chế-định-pháp vẫn thuộc về pháp-vô-ngã.

1- Sự sinh, sự diệt của danh-pháp

Danh-pháp là tâm với tâm-sở có sự sinh, sự diệt vô cùng mau lẹ, như Đức Phật dạy:

– Này chư tỳ-khưu! Như-lai không thấy pháp nào có sự sinh, sự diệt vô cùng mau lẹ như tâm.

Trong bộ Chú-giải Pāḷi dạy rằng:

“Chỉ một lần búng đầu ngón tay, tâm với tâm-sở (danh-pháp) sinh rồi diệt 1.000 tỷ lần.”

Mỗi tâm với tâm-sở có 3 sát-na:

1- Uppāda khaṇa: Sát-na-sinh.

2- Ṭhiti khaṇa: Sát-na-trụ.

3- Bhaṅga khaṇa: Sát-na-diệt.

Mỗi lộ-trình-tâm (vīthicitta) có số tâm với tâm-sở sinh rồi diệt theo tuần tự, chấm dứt bằng bhavaṅgacitta.

Trong mỗi lộ-trình-tâm có các tâm với tâm-sở phát sinh biết đối-tượng hiện-tại, hoặc đối-tượng quá-khứ, hoặc đối-tượng vị-lai, hoặc chế-định-pháp (paññatti-dhamma) tuần tự sinh rồi diệt liên tục từ lộ-trình-tâm này sang lộ-trình-tâm khác liên tục không ngừng, trong đời sống bình thường của mỗi chúng-sinh.

Khi nằm ngủ say, lộ-trình-tâm không phát sinh, chỉ có bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm sinh rồi diệt liên tục không ngừng biết đối-tượng quá-khứ kiếp trước, cho đến khi tỉnh giấc. Cho nên, khi ngủ say không có mộng, tâm không biết đối-tượng trong kiếp hiện-tại.

Mỗi tâm với tâm-sở phát sinh đều có 3 sát-na: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt.

2- Sự sinh, sự diệt của sắc-pháp

Sự sinh, sự diệt của sắc-pháp chậm hơn sự sinh, sự diệt của danh-pháp theo sự so sánh với 3 sát-na: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt của danh-pháp như sau:

* Sát-na-sinh và sát-na-diệt của sắc-pháp giống như sát-na-sinh và sát-na-diệt của danh-pháp.

* Sát-na-trụ (thời-gian-trụ) của sắc-pháp có 49 sát-na-nhỏ lâu hơn 1 sát-na-trụ của danh-pháp. Ví dụ:

Nhãn-môn lộ-trình-tâm (cakkhudvāravīthicitta) có đối-tượng sắc, hình dạng rõ ràng, gồm có 17 tâm liên tục sinh rồi diệt, mỗi tâm có 3 sát-na: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt. Như vậy, suốt nhãn-môn lộ-trình-tâm gồm có 51 sát-na-nhỏ.

Đối-tượng sắc, hình dạng rõ ràng làm đối-tượng của nhãn-môn lộ-trình-tâm, có khả năng tồn tại trải qua suốt lộ-trình-tâm gồm có 17 tâm mà mỗi tâm có 3 sát-na: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt liên tục, gồm có 51 sát-na-nhỏ.

Trong 51 sát-na-nhỏ của đối-tượng sắc-pháp ấy, có 1 sát-na-sinh và 1 sát-na-diệt, còn lại 49 sát-na-trụ (thời-gian-trụ) của đối-tượng sắc-pháp.

Như vậy, 1 sát-na-sinh và 1 sát-na-diệt của sắc-pháp giống với 1 sát-na-sinh và 1 sát-na-diệt của danh-pháp, nhưng sát-na-trụ (thời-gian-trụ) của sắc-pháp chậm hơn 49 sát-na-nhỏ so sánh với 1 sát-na-trụ của tâm.

Xem đồ biểu nhãn-môn lộ-trình-tâm có đối-tượng sắc, hình dạng rõ ràng, để có sự so sánh giữa 3 sát-na: Sát-na-sinh, sát-na-trụ, sát-na-diệt của danh-pháp với sắc-pháp.

Nhãn-môn lộ-trình-tâm (cakkhudvāravīthicitta)

Giải thích: Nhãn-môn lộ-trình-tâm

Nhãn-môn lộ-trình-tâm gồm có những sát-na-tâm sinh rồi diệt theo tuần tự liên tục, có đối-tượng sắc rõ ràng. Bắt đầu từ hộ-kiếp-tâm quá-khứ thứ nhất cho đến tiếp-đối-tượng-tâm thứ 17 là chấm dứt nhãn môn lộ-trình-tâm.

Nhãn-thức-tâm phát sinh có đối-tượng sắc rõ ràng tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, theo nhãn-môn lộ-trình-tâm sinh rồi diệt tuần tự như sau:

– Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm viết tắt (bha)

1- Atītabhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm quá-khứ vt (atī)

2- Bhavaṅgacalana: Hộ-kiếp-tâm rung động vt (na)

3- Bhavaṅgupaccheda: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt vt (da)

4- Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ-môn-hướng-tâm vt (pañ)

5- Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm vt (cak)

6- Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm vt (sam)

7- Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm vt (san)

8- Voṭṭhabbanacitta: Xác-định-tâm vt (vot)

9- 15- Javanacitta: Tác-hành-tâm vt (ja)

16- 17- Tadālambana: Tiếp-đối-tượng-tâm vt (ta)

Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm vt (bha)

Nhãn-môn lộ-trình-tâm (cakkhudvāravīthicitta)

Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm là quả-tâm có đối-tượng cũ từ kiếp trước, làm phận sự giữ gìn hộ trì kiếp sống của mỗi kiếp chúng-sinh cho đến cuối cùng. (viết tắt bha)

1- Atītabhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm quá-khứ phát sinh 1 sát-na-tâm vẫn còn giữ đối-tượng cũ kiếp trước, dù có đối-tượng sắc mới hiện-tại xuất hiện. (viết tắt atī)

2- Bhavaṅgacalanacitta: Hộ-kiếp-tâm rung động phát sinh 1 sát-na-tâm bị rung động, khi có đối-tượng sắc mới hiện-tại xuất hiện. (viết tắt na)

3- Bhavaṅgupacchedacitta: Hộ-kiếp-tâm bị cắt đứt phát sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt cùng với đối-tượng cũ kiếp trước, do đối-tượng sắc mới hiện-tại xuất hiện. (viết tắt da)

4- Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ-môn hướng-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận 5 đối-tượng mới hiện-tại (sắc,thanh, hương, vị, xúc). (viết tắt pañ)

(Trong nhãn-môn lộ-trình-tâm này chỉ tiếp nhận đối-tượng sắc mới hiện-tại mà thôi.)

5- Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn-thức-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc hiện-tại. (viết tắt cak)

6- Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng sắc hiện-tại từ nhãn-thức-tâm. (viết tắt sam)

7- Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng sắc tốt hoặc xấu. (viết tắt san)

8- Voṭṭhabbanacitta: Xác-định-tâm, đó là ý-môn-hướng-tâm (manodvāravajjanacitta) phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự xác định đối-tượng của bất-thiện-tâm hoặc của đại-thiện-tâm hoặc của đại-duy-tác-tâm, tuỳ theo trình độ hiểu biết của chúng-sinh ấy. (viết tắt vot)

9-15- Javanacitta: Tác-hành-tâm đó là bất-thiện-tâm, hoặc đại-thiện-tâm, hoặc đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục 7 sát-na-tâm cùng loại tâm làm phận sự tạo bất-thiện-nghiệp hoặc đại-thiện-nghiệp tuỳ theo trình độ hiểu biết của chúng-sinh, hoặc đại-duy-tác-tâm đối với bậc Thánh A-ra-hán không thành đại-thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp nào cả. (viết tắt ja)

16-17-Tadālambanacitta: Tiếp-đối-tượng-tâm thuộc về quả-tâm đặc biệt phát sinh 2 sát-na-tâm làm phận sự tiếp đối-tượng sắc hiện-tại từ tác-hành-tâm còn thừa 2 sát-na-tâm, hết tuổi thọ 17 sát-na-tâm của đối-tượng sắc hiện-tại, để chấm dứt nhãn-môn lộ-trình-tâm. (viết tắt ta)

– Bhavaṅgacitta: Hộ-kiếp-tâm phát sinh có đối-tượng cũ từ kiếp trước trở lại, đồng thời chấm dứt nhãn-môn lộ-trình-tâm.

Xem đồ biểu nhãn-môn lộ-trình-tâm có đối-tượng sắc, hình dạng rõ ràng, có đủ 17 sát-na-tâm sinh rồi diệt theo tuần tự thấy rằng:

– Sát-na-sinh của atītabhavaṅgacitta thứ nhất là 1 sát-na-sinh chung của danh-pháp và sắc-pháp (đối-tượng sắc)

– Sát-na-diệt của tadālambanacitta thứ 17 cuối cùng là 1 sát-na-diệt chung của danh-pháp và sắc-pháp (đối-tượng sắc).

– Thời gian sát-na-trụ của danh-pháp trong mỗi sát-na-tâm.

– Thời gian sát-na-trụ của sắc-pháp bắt đầu sát-na trụ của atītabhavaṅgacitta thứ nhất cho đến sát-na trụ của tadālambanacitta thứ 17 cuối cùng, gồm có 49 sát-na nhỏ của tâm.

 

Quyển 10 – Pháp Hành Thiền Tuệ – Chương 4 - Trạng thái chung & Trạng thái riêng - -Ba trạng thái chung
Quyển 10 – Pháp Hành Thiền Tuệ – Chương 6 - Trạng-thái-chung, trạng-thái-riêng - Pháp che án 3 trạng-thái-chung

Nền Tảng Phật Giáo

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nền Tảng Phật Giáo has 640 posts and counting. See all posts by Nền Tảng Phật Giáo

Nền Tảng Phật Giáo

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *