Bố-Thí Cầu Nguyện
Thí-chủ sau khi làm phước-thiện bố-thí xong rồi, thường có lời cầu nguyện rằng:
“Do nhờ phước-thiện bố-thí này, xin cho tôi được giàu sang phú quý, được chức trọng quyền cao, được sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, v.v… cho được thành-tựu như ý nguyện.”
Lời cầu nguyện của thí-chủ được thành-tựu như ý nguyện thật sự, thì thí-chủ phải làngười có giới trong sạch và trọn vẹn.
Còn nếu thí-chủ là người phạm giới, không có giới thì lời cầu nguyện khó có thể thành-tựu được như ý, bởi vì thí-chủ là người phạm giới, không có giới, nên phước-thiện bố-thíkhông có cơ-hội cho quả được như ý nguyện.
Thật vậy, trong bài kinh Dānūpapattisutta([5]) Đức-Phật thuyết dạy với ý nghĩa rằng:
– Này chư Tỳ-khưu! Sự sinh của phước-thiện bố-thí có 8 pháp. 8 pháp ấy như thế nào?
1- Này chư Tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn thắp sáng,… đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nhìn thấy hoàng tộc cao-thượng, dòng bà-la-môn cao quý, những phú-hộ đầy đủ 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng trong đời, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trong hoàng tộc cao-thượng, hoặc trong dòng bà-la-môn cao quý, hoặc trong gia đình phú-hộ đầy đủ 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng trong đời.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền…
Thí-chủ sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai trong hoàng tộc, hoặc trong dòng bà-la-môn, hoặc trong gia đình phú-hộ.
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành-tựu như ý, thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới”.
– Này chư Tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, sự cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
2- Này chư Tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước,… đèn thắp sáng,… đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương có tuổi thọ sống lâu (500 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 9 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tứ-đại-thiên-vương bằng 50 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời, an-lạc vi tế, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương ấy.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền…
Thí-chủ sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương ấy.
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành-tựu như ý, thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.
– Này chư Tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
3 đến 7- Này chư Tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, … đèn thắp sáng, … đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
-Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ sống lâu (1.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên bằng 100 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
– Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Dạ-ma-thiên có tuổi thọ sống lâu (2.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 144 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Dạ-ma-thiên bằng 200 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
– Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên có tuổi thọ sống lâu (4.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên bằng 400 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
– Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Hóa-lạc-thiên có tuổi thọ sống lâu (8.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Hóa-lạc-thiên bằng 800 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
– Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên có tuổi thọ sống lâu (16.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 9.216 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên bằng 1.600 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên ấy.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm
tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền…
Thí-chủ sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên ấy.
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành-tựu như ý, thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.
– Này chư Tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
8- Này chư Tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, … đèn thắp sáng, … đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
Chư phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên có tuổi thọ sống lâu hơn chư-thiên cõi dục-giới, có sắc thân hào quang sáng ngời, an-lạc vô cùng vi-tế, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! Trước khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này làm duyên phát sinh sắc-giới thiện-tâm có sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng đến bậc thấp trong bậc thiền sắc-giới, không hướng lên bậc cao Thánh-đạo, Thánh-quả, và Niết-bàn.
Thí-chủ sau khi chết, sắc-giới thiện-tâm không có tham-ái trong cõi dục-giới, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hoá-sinh làm phạm-thiên trên cõi sắc-giới phạm-thiên ấy, (tuỳ theo sắc-giới quả-tâm).
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành-tựu như ý, thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, có sắc-giới thiện-tâm không có tham-ái trong cõi dục-giới, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới,
– Này chư Tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có sắc-giới thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
– Này chư Tỳ-khưu! Sự sinh của phước-thiện bố-thí có 8 pháp như vậy.
Nhận Xét Bài Kinh Dānūpapattisutta
Trong bài kinh Dānūpapattisutta này, thí-chủ làm phước-thiện bố-thí xong, tâm của thí-chủ cầu mong hưởng quả của phước-thiện bố-thí trong cõi dục-giới, thậm chí trong cõi trời sắc-giới, đó là sự cầu mong bậc thấp trong vòng luẩn quẩn tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, cho nên Đức-Phật dạy rằng:
“Tâm của thí-chủ cầu mong hưởng quả bậc thấp trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, cho đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên, không tiến triển lên bậc cao là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Thí-chủ sau khi chết, tâm cầu mong cõi nào thì thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ấy (Tassa taṃ cittaṃ hīne vimuttaṃ, uttari abhāvitaṃ. Tatrūpapattiyā saṃvattati.).
“Như-lai dạy rằng: Kiếp-sau của thí-chủ được thành-tựu như ý, thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới (Tañca kho sīlavato vadāmi, no dussīlassa).
– Này chư Tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh (Ijjhati bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi visuddhattā.([6])).
Như vậy, người thí-chủ nào có giới trong sạch và trọn vẹn, làm phước-thiện bố-thí thuộc về dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí. Người thí-chủ ấy sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.
Nếu thí-chủ nào đã phạm giới, không có giới, dù có làm phước-thiện bố-thí thuộc về dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí, thì thí-chủ ấy sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí cũng không có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau, mà ác-nghiệp phạm giới có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
Còn dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí chờ cơ-hội khác cho quả.
* Trong Phật-giáo này, các hàng thanh-văn đệ-tử sau khi đã làm phước-thiện bố-thí dù lớn dù nhỏ, cũng nên nguyện cầu bậc cao cứu cánh Niết-bàn đó là A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Trong Chú-giải Chi-bộ-kinh dạy đọc lời cầu nguyện như sau:
“Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu”([7])
Phước-thiện bố-thí này của con xin làm nhân-duyên dẫn dắt con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Nếu làm các phước-thiện khác thì đọc lời nguyện cầu như sau:
“Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.”
Phước-thiện này của con xin làm nhân-duyên dẫn dắt con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Đó là lời cầu nguyện bậc cao cứu cánh Niết-bàn của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, nên phước-thiện bố-thí ấy trở thành pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, làm nền tảng hỗ-trợ cho các pháp-hạnh ba-la-mật còn lại được thuận lợi thành-tựu đầy đủ.
Trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, mỗi hàng thanh-văn đệ-tử có pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật hỗ-trợ được thành-tựu quả-báu ở cõi người (manussasampatti) dù giàu sang phú quý như thế nào cũng không đắm say trong cõi người, hoặc được thành-tựu quả-báu ở cõi trời (devasampatti) dù hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời như thế nào cũng không đắm say trong cõi trời ấy, bởi vì mục đích cứu cánh của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử là nguyện cầu sớm được thành-tựu đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, để hỗ-trợ hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đạt đến mục đích cứu cánh thành-tựu quả-báu Niết-bàn (Nibbānasampatti) giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
[1] Jātakaṭṭhakathā, Udapānavagga, Kurudhammajātakavaṇṇnā.
[2] Kurudhammo nāma pañcasīlāni: Pháp kuru là tên gọi ngũ-giới.
1 Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipātapāḷi, kinh Abhisandasutta.
2 Trong bộ Milindapañhā.
[3] Dī, Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
[4] Dhammapadaṭṭhakathā, Lokavagga, Aṅgulimālattheravatthu.
[5] Aṅguttaranikāya, AṭṭhakanipātaPāḷi, Dānūpapattisutta.
[6] Aṅguttaranikāya, AṭṭhakanipātaPāḷi, Dānūpapattisutta.
[7] Aṅg. Ekakanipātaṭṭhakathā, Paṇihita acchavaggavaṇṇanā.