Tam-Tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo tạng thì có 3 tạng:
– Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi).
– Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi).
– Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi).
1- Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi)
Tạng Luật Pāḷi gồm những lời răn dạy của Đức-Phật. Đức-Phật đã ban hành những điều-giới tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni, những pháp-hành tăng-sự, những điều cho phép và những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm, v.v…
Tạng Luật Pāḷi có 5 bộ:
1- Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều-giới:
– 4 điều-giới Pārājika
– 13 điều-giới Saṃghādisesa
– 2 điều-giới Aniyata
– 30 điều-giới Nissaggiya pācittiya, …
2- Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều-giới:
– 92 điều-giới Suddha pācittiya
– 4 điều-giới Pāṭīdesanīya
– 75 điều-giới Sekhiya.
– 7 điều Adhikaraṇasamatha
– Những điều-giới của tỳ-khưu ni.
3- Bộ Mahāvaggapāḷi (Tạng Luật)
Trong bộ luật Mahāvagga Pāḷi này, Đức-Phật thuyết giảng về chuyện chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, thuyết pháp kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, Đức-Phật ban hành phép xuất-gia thọ sadi, tỳ-khưu, v.v…
4- Bộ Cūḷavaggapāḷi
Trong bộ luật Cūḷavagga Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều pháp-hành tăng-sự đến chư tỳ-khưu. Bộ này, lần đầu tiên Đức-Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật, cùng với 500 cận-sự-nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ tỳ-khưu-ni, v.v…
5- Bộ Parivārapāḷi
Trong bộ luật Parivāra Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và nhiều vấn đề khác, …
Đó là 5 bộ trong Tạng Luật Pāḷi mà chỉ có Đức-Phật duy nhất chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, … mà thôi. Còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không có khả năng chế định ra điều-giới và các pháp- hành tăng-sự, … Các điều-giới, các pháp-hành tăng-sự mà Đức-Phật đã chế định và đã ban hành rồi, các hàng thanh-văn đệ-tử cần phải nên nghiêm chỉnh hành theo mà không được phép sửa đổi, thêm hoặc bớt điều nào cả.
Tạng Luật Pāḷi Có 3 Đặc Tính Đặc Biệt
1- Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
2- Đức-Phật giáo-huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana).
3- Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).
1- Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào?
Đức-Phật đã chế định ra điều-giới, các pháp-hành tăng-sự, điều cho phép và không cho phép, việc nên làm và không nên làm, … đến chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni.
Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức-Phật đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm điều nào thì vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều- giới ấy.
Đức-Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng- luật, còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không được phép chế định một điều nào cả.
2- Đức-Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào?
Khi nào tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư-thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư tỳ-khưu-tăng. Khi ấy, Đức- Phật mới chế định điều-giới, ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, để đem lại 10 điều lợi ích như sau:
1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho tỳ- khưu-Tăng, tỳ-khưu-ni-Tăng.
2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho tỳ- khưu-Tăng, tỳ-khưu-ni-Tăng.
3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni phá giới, khó dạy không biết hổ-thẹn tội-lỗi và không biết ghê-sợ tội-lỗi.
4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết kính yêu giới.
5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để ngăn ngừa những tai họa xảy ra trong kiếp hiện-tại.
6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để tránh khỏi những tai họa trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) trong kiếp vị-lai.
7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh đức-tin đến những người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo.
8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức-tin cho những người đã có đức-tin nơi Tam-Bảo.
9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho chánh-pháp “pháp-học chánh-pháp, pháp-hành chánh-pháp, pháp-thành chánh-pháp” được trường tồn lâu dài.
10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh.
Sau khi có tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu tiên, thì Đức-Phật mới chế định ra điều-giới. Cho nên, những tỳ-khưu nào, tỳ-khưu-ni nào phạm lỗi đầu tiên, tỳ-khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy không phải phạm điều-giới ấy.
Đức-Phật chế định điều-giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức-Phật đã chế định điều- giới nào rồi, ban hành đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nếu tỳ- khưu nào, tỳ-khưu-ni nào cố ý phạm điều-giới ấy thì tỳ- khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy đã phạm điều-giới ấy.
3- Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu như thế nào?
Đức-Phật ban hành điều-giới đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cốt để răn dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu.
Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn điều-giới được trong sạch, có thể diệt được phiền-não loại thô (vitikkama-kilesa), để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ được phát triển.
Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật Pāḷi.
Tỳ-Khưu-Giới
Đức-Phật chế định, ban hành điều-giới của tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều-giới như sau:
1- Pārājika: Giới bại hoại có 4 điều-giới.
2- Saṃghādisesa: Giới hành phạt có 13 điều-giới.
3- Aniyata: Giới bất định có 2 điều-giới.
4- Nissaggiya pācittiya: Xả rồi sám hối có 30 điều-giới nghĩa là tỳ-khưu phải xả bỏ vật bị phạm giới trước, sau đó mới xin sám hối (pācittiya āpatti).
5- Suddha pācittiya: Giới sám hối lỗi có 92 điều-giới.
6- Pāṭidesanīya: Giới sám hối riêng rẽ có 4 điều-giới.
7- Sekhiya: Giới hành có 75 điều-giới.
8- Adhikaraṇasamatha: Pháp giảng hòa có 7 pháp.
Tuy nhiên, trong Tạng Luật Pāḷi gom tất cả mọi điều- giới của tỳ-khưu đầy đủ có 91.805.036.000 điều-giới.
Như trong bộ Visuddhimagga dạy:
“Navakoṭisahassāni, asitisatakoṭiyo.
Paññāsasatasahassāni, chattiṃsa ca punāpare.
Ete saṃvaravinayā, Sambuddhena pakāsitā
Peyyālamukhena niddiṭṭhā, sikkhā vinayasaṃvare.”(1)
Đức-Phật đã chế định những điều-giới trong Tạng Luật Pāḷi theo cách tính rộng thì gồm có 91.805.036.000 điều-giới, giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu tránh xa mọi hành-ác.
Tỳ-Khưu-Ni Giới
Đức-Phật chế định ban hành điều-giới của tỳ-khưu-ni Bhikkhunipātimokkhasīla gồm có 311 điều-giới như sau:
1- Pārājika có 8 điều-giới.
2- Saṃghādisesa có 17 điều-giới.
3- Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới.
4- Suddha pācittiya có 166 điều-giới.
5- Pāṭidesanīya có 8 điều-giới.
6- Sekhiya có 75 điều-giới.
7- Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.
Tên điều-giới Tỳ-khưu-giới
1- Điều-giới Pārājika có 4 điều-giới
2- Điều-giới Saṃghādisesa có 13 điều-giới
3- Điều-giới Aniyata có 2 điều-giới
4- Điều-giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới
5- Điều-giới Suddha pācittiya có 92 điều-giới
6- Điều-giới Pāṭidesanīya có 4 điều-giới
7- Điều-giới Sekhiya có 75 điều-giới
8- Điều-giới Adhikaraṇasamatha có 7 điều-giới
227 điều-giới
Tên điều-giới Tỳ-khưu-ni giới
1- Điều-giới Pārājika có 8 điều-giới
2- Điều-giới Saṃghādisesa có 17 điều-giới
3- Điều-giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới
4- Điều-giới Suddha pācittiya có 166 điều-giới
5- Điều-giới Pāṭidesanīya có 8 điều-giới
6- Điều-giới Sekhiya có 75 điều-giới
7- Điều-giới Adhikaraṇasamatha có 7 điều-giới
311 điều-giới
Phạm Giới Āpatti
Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-Ni Phạm Giới Āpatti có 7 loại
1- Pārājika āpatti: Phạm giới bại hoại. Mất phẩm hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu ni.
2- Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới hành phạt. Xin chư Tăng hình phạt.
3- Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng. Lỗi kém thua hai giới trên.
4- Pācittiya āpatti: Phạm giới sám hối lỗi.
5- Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới sám hối riêng rẽ.
6- Dukkaṭa āpatti: Phạm giới hành bậy.
7- Dubbhāsita āpatti: Phạm giới nói bậy.
Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính:
1- Phạm giới āpatti nặng có 2 loại:
* Pārājika āpatti: Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni ấy bị mất phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, họ phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành sa-di suốt đời).
* Saṃghādisesa āpatti: Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni ấy tuy còn phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức-Phật ban hành: hành parivāsakamma, hành mānatta- kamma và hành abbhānakamma, để cho giới của mình được trở lại trong sạch
2- Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại
Thullaccaya āpatti, pācittiya āpatti, pāṭidesanīya āpatti, dukkaṭa āpatti, dubbhāsita āpatti. Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong 5 loại giới này thì tỳ- khưu, tỳ-khưu-ni ấy có thể xin sám hối với một vị tỳ-khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.
Quả Báu Của Sự Giữ Gìn Giới
Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Đức-Phật thuyết dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn có được quả báu theo nhân quả tuần tự như sau:
1- Giữ gìn giới trong sạch trọn vẹn đem lại lợi ích là giữ gìn cẩn trọng 6 môn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) được thanh-tịnh.
2- Có giữ gìn cẩn trọng 6 môn được thanh-tịnh đem lại lợi ích là tâm không nóng nảy, tâm mát mẻ.
3- Tâm mát mẻ đem lại lợi ích là có tâm hài lòng hoan hỷ.
4- Tâm hài lòng hoan hỷ đem lại lợi ích là pháp-hỷ. 5- Pháp-hỷ đem lại lợi ích là pháp an-tịnh.
6- Pháp an-tịnh đem lại lợi ích là pháp an-lạc.
7- Pháp an-lạc đem lại lợi ích là pháp thiền-định.
8- Pháp thiền-định đem lại lợi ích là trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ-uẩn.
9- Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ- uẩn đem lại lợi ích là trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn.
10- Trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn đem lại lợi ích là diệt tận được tham-ái bằng 4 Thánh-đạo-tuệ.
11- Diệt tận được tham-ái đem lại lợi ích là giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ.
12- Giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ đem lại lợi ích cho trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải-thoát-khổ rồi.
13- Trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải-thoát-khổ rồi đem lại lợi ích là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Hành-giả giữ gìn giới được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng đem lại nhiều lợi ích cho mọi thiện-pháp, cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, cho đến lợi ích cao thượng là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Quả Báu Của Việc Học Tạng Luật Pāḷi
Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Ngài Trưởng- lão Upāli bạch hỏi Đức-Thế-Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật Pāḷi. Đức-Phật dạy rằng:
– Này Upāli! Tỳ-khưu học Tạng Luật Pāḷi có được 5 quả báu là:
1- Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
2- Mình là nơi nương nhờ của những người khác, họ đến học hỏi để hiểu rõ giới luật.
3- Người có thiện-tâm dũng cảm trong các hội chúng.
4- Người thắng kẻ thù bên trong là phiền-não và kẻ thù bên ngoài bằng chánh-pháp.
5- Người hành theo chánh-pháp để duy trì chánh-pháp được trường tồn.
Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật Pāḷi.
2- Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi)
Tạng Kinh Pāḷi là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ mà Đức-Phật đã thuyết giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ có lời của chư Thánh A-ra-hán, chư-thiên, chư phạm-thiên, Đức-vua, Sa-môn, Bà-la-môn, … trong các bài kinh ấy. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức-Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì xem như lời dạy của Đức-Phật.
Tạng Kinh Pāḷi gồm có 5 bộ lớn:
1- Trường-Bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi): Gồm có những bài kinh dài.
2- Trung-Bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi): Gồm có những bài kinh loại trung.
3- Đồng-Loại Bộ-kinh Pāḷi (Samyuttanikāyapāḷi):
Gồm những bài kinh có điểm giống gom thành nhóm.
4- Chi-Bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi): Gồm những bài kinh có chi pháp rõ ràng.
5- Tiểu-Bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi): Gồm những bài kinh, bài kệ không có trong 4 bộ trên, được gom vào Tiểu-Bộ-kinh này.
Tạng Kinh Pāḷi Có 3 Đặc Tính Đặc Biệt
– Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
– Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh (yathānulomasāsana).
– Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt được tà-kiến (diṭṭhiviniveṭhanakathā).
1- Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?
Đức-Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng-sinh. Cho nên, Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh gồm có nhiều hạng chúng-sinh khác nhau như tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ, Vua chúa, Bà-la-môn, dân chúng, cho đến chư-thiên, chư phạm-thiên, v.v…
Mỗi khi chúng-sinh lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, họ đều hiểu rõ ràng chánh-pháp, bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng của mỗi chúng-sinh.
Vì vậy, sau khi nghe pháp xong, có số trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, có số trở thành bậc Thánh Nhất-lai, có số trở thành bậc Thánh Bất-lai, có số trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
Cũng có số chúng-sinh chưa trở thành bậc Thánh- nhân, họ đang tạo duyên lành, bồi bổ các pháp-hạnh ba- la-mật để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong thời vị-lai kiếp này, hoặc kiếp sau.
2- Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh như thế nào?
Đức-Phật có hai loại trí-tuệ đặc biệt là:
1- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ biết rõ 5 pháp- chủ già dặn hoặc non nớt của mỗi chúng-sinh.
2- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ biết rõ phiền-não trầm luân ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.
Cho nên, Đức-Phật biết rõ được chúng-sinh có duyên lành chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, hoặc không chứng đắc, nên Đức-Phật thuyết pháp tế độ phù hợp với duyên lành của chúng-sinh ấy.
Khi chúng-sinh ấy lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền- não, tham-ái, trở thành bậc Thánh-nhân.
Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, biết chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền bốc thuốc tốt nên bệnh nhân mau lành bệnh.
3- Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt tà-kiến như thế nào?
Đức-Phật biết rõ mỗi chúng-sinh có tà-kiến khác nhau (trong 62 loại tà-kiến), nên Đức-Phật thuyết dạy chúng- sinh ấy phát sinh chánh-kiến, nên diệt được tà-kiến theo chấp ngã, các loại tà-kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân một cách dễ dàng.
Đó là 3 đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.
3- Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi)
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm những chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) cao-siêu, vi-diệu, là những pháp có thật-tánh rõ ràng như: thiện-pháp (kusaladhamma), bất-thiện-pháp (akusaladhamma), phi-thiện bất-thiện- pháp (abyākatadhamma)(không phải thiện, bất-thiện pháp), …
Những pháp ấy được phân chia ra là ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự tánh, … tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa), Niết-bàn (Nibbàna), thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, … chỉ là những thật-tánh-pháp mà thôi.
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được Đức-Phật thuyết tại cung trời Tam-thập-Tam-thiên vào mùa hạ thứ 7 của Đức- Phật, để tế độ Phật-mẫu mà kiếp hiện-tại là vị thiên-nam Santussita ở cõi trời Đâu-suất-đà-thiên. Vị thiên-nam Santussita hiện xuống cung trời Tam-thập-Tam-thiên lắng nghe Đức-Phật thuyết Tạng Vi-diệu-pháp này suốt 3 tháng hạ.(1) Vị thiên-nam Santussita trở thành bậc Thánh Nhập-lưu cùng với 800 tỷ chư-thiên, chư phạm- thiên cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn cao thấp tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị.
Đức-Phật thuyết giảng tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập-Tam-thiên, mỗi ngày đến giờ đi khất thực, hoá ra Đức-Phật tiếp tục thuyết giảng, còn Đức- Phật thật ngự đi khất thực nơi Bắc-cưu-lưu-châu, rồi ngự đến hồ nước Anomadatta tại rừng núi Himavanta, Đức- Phật thọ thực. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta mỗi ngày đến hầu phục vụ Đức-Phật. Sau khi thọ thực xong, Đức-Phật thuyết giảng lại Vi-diệu-pháp tóm lược ngày hôm ấy cho Ngài Đại-Trưởng-lão.
Đức-Phật ngự trở lại cung trời thay thế Đức-Phật hóa tiếp tục thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về dạy lại bằng cách khai triển đầy đủ cho nhóm 500 đệ-tử của Ngài.
Như vậy, suốt 3 tháng hạ mùa mưa, Đức-Phật thuyết giảng tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập- Tam-thiên, thì tại cõi người, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cũng giảng dạy lại cho nhóm 500 đệ-tử thông thuộc, thấu suốt tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi. Về sau tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi được lưu truyền rộng rãi đến các hàng thanh-văn đệ-tử cho đến ngày nay.