7 Lâu Đài Trên Hư Không
Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi nhìn thấy 7 lâu đài vàng sáng chói như mặt trời giữa hư không, vị thiên-nam trong lâu đài có nhiều oai lực, trang sức các viên ngọc quý, có các thiên nữ xung quang hầu hạ, phục vụ đàn ca múa hát. Vị thiên-nam luân chuyển hưởng an lạc trong 7 lâu đài vàng ấy. Đức-vua Bồ-tát Nimi cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên truyền hỏi vị thiên-nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! Vị thiên-nam ấy đã tạo phước thiện như thế nào, mà được hóa sinh trên cõi trời, hưởng sự an lạc trong 7 lâu đài vàng như vậy?
Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện nghiệp của vị thiên nữ ấy, nên tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, vị thiên-nam ấy tên là Soṇadinna, tiền kiếp của vị thiên-nam là thí chủ Soṇadinna một tỉnh nhỏ trong đất nước Kāsi. Ông cho xây dựng 7 cốc, rồi dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, ông thường hộ độ các thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư tỳ-khưu. Ông là người cận sự nam có ngũ-giới trong sạch, thường thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.
Ông thí chủ Soṇadinna sau khi chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm vị thiên-nam Soṇadinna có 7 lâu đài vàng sáng chói, hưởng mọi sự an lạc như vậy.
Lâu Đài Bằng Ngọc Maṇi
Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi lên cao nhìn thấy lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn phát ra ánh sáng chói ngời mát dịu, có đủ các loại âm thanh hay nghe êm tai. Vị thiên-nam có nhiều oai lực trong lâu đài, các thiên nữ trang sức xinh đẹp lộng lẫy ca hát nhảy múa mà chưa từng thấy, chưa từng nghe bao giờ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! Vị thiên-nam ấy đã từng tạo phước thiện như thế nào mà được hóa sinh trên cõi trời, hưởng sự an lạc trong lâu đài bằng ngọc maṇi như vậy?
Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện nghiệp của vị thiên nữ ấy, nên tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền kiếp của vị thiên-nam ấy là cận sự nam có giới hạnh trong sạch trong kinh thành Bārāṇasī, thời kỳ Đức Phật Kassapa. Ông cùng nhóm thí chủ xây dựng ngôi chùa, giếng nước, hồ nước, đường sá, cầu đường; ông hộ độ cúng dường chư Thánh-A-ra-hán, những thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh…một cách cung kính; ông thường thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.
Người cận-sự-nam sau khi chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm vị thiên-nam trong lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn, có hào quang sáng ngời toả ra khắp mọi nơi , hưởng mọi sự an lạc như vậy.
Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự trên cỗ xe trời Vejayanta-ratha có 1000 con ngựa báu Sindhava kéo lên càng cao, thì càng nhìn thấy những lâu đài của chư thiên càng nguy nga tráng lệ hơn các lâu đài phía dưới, do oai lực phước thiện lớn của mỗi vị thiên-nam, thiên nữ.
7 Ngọn Núi Cao Nơi Cõi Trời Tứ-Đại-Thiên-Vương
Tiếp tục lên cao, nhìn thấy 7 ngọn núi lớn có chiều cao theo tuần tự trong đại dương Sīdantara, Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi vị thiên-nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! 7 ngọn núi lớn tên gọi là gì?
Vị thiên-nam Mātali tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, 7 dãy núi lớn tên gọi là núi Sudassana, núi Karavīka, núi Īsadhara, núi Yugandhara, núi Nemindhara, núi Vinataka, núi Assa-kaṇṇa, mỗi ngọn núi có chiều cao theo tuần tự, ngọn núi trên cao hơn ngọn núi dưới. 7 ngọn núi nằm trong đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Sudassana thấp đến ngọn núi Karavīka cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara, theo tuần tự như vậy.
* Từ ngọn núi Karavīka thấp đến ngọn núi Īsadhara cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Īsadhara thấp đến ngọn núi Yugan-dhara cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Yugandhara thấp đến ngọn núi Nemin-dhara cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Nemindhara thấp đến ngọn núi Vinataka cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
* Từ ngọn núi Vinataka thấp đến ngọn núi Assakaṇṇa cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara. Ngọn núi Assakaṇṇa là cao nhất. 7 ngọn núi thấp cao ví như 7 tầng nấc thang.
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, 7 ngọn núi ấy là chỗ ngự của tứ Đại-Thiên-vương hộ trì thế giới:
* Đại-Thiên-vương Dhataraṭṭha ngự tại hướng Đông.
*Đại-Thiên-vương Virūḷhaka ngự tại hướng Nam.
*Đại-Thiên-vương Virūpakkha ngự tại hướng Tây.
*Đại-Thiên-vương Kuvera ngự tại hướng Bắc.
Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi qua 7 ngọn núi, chỗ ngụ của tứ Đại-Thiên-vương, rồi tiếp tục ngự đi lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
Nhìn thấy cổng cõi trời Tam-thập-tam-thiên có điêu khắc hình Đức-vua-trời Sakka đẹp tuyệt vời, Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! Cổng ấy đẹp tuyệt vời có tên gọi là gì?
Vị thiên-nam Mātali tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, cổng ấy có tên gọi là Cittakūṭa là cổng ra vào của Đức-vua-trời Sakka, cổng ấy có chiều rộng và chiều dài mỗi chiều 1000 do tuần là cổng chính của cõi trời Tam-thập-tam-thiên nằm trên đỉnh ngọn núi Sineru, thật là xinh đẹp lạ thường, có điêu khắc hình Đức-vua-trời Sakka, các hình ảnh sư tử chúa, hổ chúa, v.v….
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, kính thỉnh Đại-vương ngự vào cổng này, ngự đi trên nền cõi trời bằng vàng và ngọc maṇi, xung quanh có các loài hoa trời đủ loại rất xinh đẹp.
Ngự trên cỗ xe trời Vejayantaratha có 1000 con ngựa báu Sindhava kéo bay vào bên trong, Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy hội trường rộng lớn nguy nga tráng lệ tuyệt vời tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, nên truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! Hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là gì?
Vị thiên-nam Mātali tâu rằng:
– Muôn tâu Đại-vương cao thượng, hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là hội trường Sudhammā được phát sinh do quả phước-thiện, thật nguy nga lộng lẫy tuyệt vời, các cây cột 8 cạnh bằng ngọc quý nhất.
Hội trường là chỗ hội họp của toàn thể chư thiên cung trời Tam-thập-tam-thiên, có Đức-vua-trời Sakka chủ trì, để bàn thảo những vấn đề an-lạc hạnh-phúc của chư-thiên và nhân-loại.
– Kính thỉnh Đại-vương ngự vào hội trường Sudham- mā, nơi mà Đức-vua-trời Sakka cùng toàn thể chư thiên đang chờ đón rước Đại-vương.
Đang ngồi chờ đợi Đức-vua Bồ-tát Nimi, toàn thể chư thiên nghe tin báo rằng:
“Đức-vua Bồ-tát Nimi đã ngự đến rồi!”
Mỗi vị thiên-nam, thiên-nữ cầm đóa hoa trời, hương trời, v.v. đi ra tận cổng Cittakūṭa đứng đón rước cúng dường Đức-vua Bồ-tát Nimi, kính thỉnh Đức-vua ngự vào hội trường Sudhammā.
Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự xuống cỗ xe trời Vejayanta-ratha, ngự đi vào hội trường Sudhammā.
Hai bên đường toàn thể chư-thiên hoan hỷ đón rước, cúng dường những phẩm vật quý đến Đức-vua Bồ-tát Nimi reo hò rằng:
“ Muôn tâu Đại-vương, toàn thể chư thiên chúng con kính chào mừng Đại-vương.
Kính thỉnh Đại-vương ngự lên trên bảo tòa bên cạnh Đức-vua-trời Sakka.
Đức-vua-trời Sakka vô cùng hoan hỷ tâu rằng: “Bổn vương vô cùng hoan hỷ đón rước Đại-vương của đất nước Videha. Kính thỉnh Đại-vương ngự lên trên bảo tòa cao quý của bổn vương.
Kính thỉnh Đại-vương hưởng mọi sự an lạc trên cung trời Tam-thập-tam-thiên này.
Nghe Đức-vua-trời Sakka kính thỉnh như vậy, Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền bảo rằng:
– Muôn tâu Đức-vua-trời, những thứ gì có được do người khác ban tặng, những thứ ấy ví như xe cộ hoặc của cải mượn người của người khác. Do đó, bổn vương không muốn được của người khác ban tặng. Mọi phước- thiện mà chính bổn vương tự tạo, đó là thứ của cải riêng của chính mình, gắn bó với mình mà thôi.
Khi hồi cung ngự trở lại kinh thành Mithilā, bổn vương sẽ tạo mọi phước-thiện trong cõi người, như bố thí, giữ gìn giới trong sạch, thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, giữ gìn thận trọng 6 môn thanh tịnh, thực-hành pháp-hành thiền-định, để cho tâm được an-lạc, sẽ không bị nóng nảy về sau.
Đức-vua Bồ-tát Nimi thuyết pháp với giọng hay tế độ toàn thể chư thiên, làm cho chư thiên vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Đức-vua Bồ-tát.
Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên chỉ có 7 ngày, tính theo thời gian cõi người.
Đức-vua Bồ-tát Nimi tán dương ca tụng vị thiên-nam Mātali rằng:
– Này thiên-nam Mātali! Ngươi đã đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Trẫm ngự đi xem những chúng sinh trong các cõi địa-ngục, và ngự đi xem những chư-thiên trong các lâu đài nguy nga tráng lệ.
Vậy, ngươi đã có công giúp đỡ Trẫm nhiều.
Sau đó, Đức-vua Bồ-tát Nimi tâu với Đức-vua-trời Sakka rằng:
– Muôn tâu Đức-vua-trời, bổn vương đã ngự an hưởng tại cung trời Tam-thập-tam-thiên suốt 7 ngày qua. Nay, bổn vương mong muốn hồi cung trở lại kinh thành Mithilā.
Nghe Đức-vua Bồ-tát Nimi tâu như vậy, Đức-vua-trời Sakka truyền lệnh vị thiên-nam Mātali đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi hồi cung ngự trở về kinh-thành Mithilā.
Tuân theo lệnh của Đức-vua-trời Sakka, vị thiên-nam Mātali thỉnh Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi hồi cung ngự trở về kinh-thành Mithilā.
Đức-vua Bồ-tát Nimirājā ngự tại kinh thành Mithilā trị vì xứ Vedeha, thần dân thiên hạ được sống an lành thịnh vượng.
Một hôm, nhìn thấy trên đầu có sợi tóc bạc, Đức-vua Bồ-tát Nimirājā hội triều rồi truyền dạy các quan cùng thần dân trong xứ Vedeha rằng:
– Này các khanh cùng thần dân thiên hạ! Trên đầu
Trẫm đã có sợi tóc bạc rồi, thời trẻ trung đã qua, thời lão niên đã hiện rõ. Ngay bây giờ, Trẫm sẽ đi xuất gia, trao ngai vàng lại cho các khanh.
Nghiệp và quả của nghiệp thật là công bằng như vậy.
*Nếu người nào muốn hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp nào thì người ấy nên tạo thiện-nghiệp ấy tuỳ theo khả năng của mình, bởi vì chỉ có thiện-nghiệp mới cho quả an-lạc mà thôi.
* Nếu người nào không muốn chịu quả khổ của ác-nghiệp thì người ấy nên tránh xa mọi ác-nghiệp, bởi vì chỉ có ác-nghiệp mới cho quả khổ mà thôi.
Đó là sự công bằng của nghiệp và quả của nghiệp.