Pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng (Mettāparamatthapāramī)

Pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng (Mettāparamatthapāramī) 

Tích Ekarājajātaka  này, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng (Mettāparamatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau: 

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, một vị quan là cận-sự-nam có giới hạnh trong sạch, phục vụ trung thành đắc lực trong triều đình của Đức-vua Kosala. Đức-vua Kosala nghĩ rằng: 

“Vị quan này có công lớn trong triều đình của ta, vậy ta nên tấn phong y lên địa vị xứng đáng và ban thưởng của cải cho y.” 

Khi vị quan ấy được chức lớn và lợi lộc nhiều, nên có số vị quan khác phát sinh tâm ganh tỵ, tìm cách làm hại vị quan ấy. Họ vu khống tâu lên Đức-vua Kosala rằng: 

– Muôn tâu Bệ-hạ! Chúng thần thấy vị quan ấy có chức trọng quyền cao nên có mưu đồ làm phản Bệ-hạ. 

Ban đầu Đức-vua không tin, các vị quan khác cứ tâu đi tâu lại nhiều lần như vậy, làm cho Đức-vua Kosala phát sinh tâm nghi ngờ vị quan ấy, nên Đức-vua Kosala truyền lệnh bắt, xiềng đôi chân vị quan ấy, rồi đem giam riêng một mình trong nhà tù. Vị quan ấy vốn là cận-sự-nam có giới hạnh trong sạch, nên khi ở trong nhà lao một mình, người cận-sự-nam ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. 

Về sau, Đức-vua Kosala biết rõ vị quan ấy là người thanh liêm, đáng tin cậy, nên Đức-vua truyền lệnh thả vị quan ấy ra và phong lại chức tước cũ. 

Vị quan ấy đến hầu đảnh lễ, cúng dường Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng: 

– Này cận-sự-nam! Như-Lai nghe tin vừa qua con đã bị ở tù có đúng vậy không? 

Vị quan ấy bạch rằng: 

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đúng vậy, con vừa mới ra khỏi tù và được phong lại chức như trước. Bạch Ngài. 

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi con đang ở trong tù, trong hoàn cảnh bất lợi, nhưng con đã tạo được sự lợi ích trong hoàn cảnh bất lợi ấy. Con đã thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. Bạch Ngài. 

Đức-Thế-Tôn truyền bảo rằng: 

– Này cận-sự-nam! Không chỉ có mình con đã tạo được sự lợi ích trong hoàn cảnh bất lợi, mà tiền-kiếp của Như-Lai cũng đã từng tạo được sự lợi ích trong hoàn cảnh khổ ngặt nghèo. 

Tích Ekarājajātaka 

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền bảo như vậy, vị quan ấy kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết về tiền-kiếp của Ngài. 

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết tích Ekarāja-jātaka được tóm lược như sau: 

Trong thời quá-khứ, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja ngự tại kinh-thành Bārāṇasī, trị vì đất nước rộng lớn Kāsiraṭṭha. Khi ấy, trong triều đình của Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có một vị quan đã có những hành vi xấu xa, ông đã làm rối loạn kỷ cương trong cung điện của Đức-vua, nên các quan tâu trình chuyện vị quan ấy lên Đức-vua. 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja truyền gọi vị quan ấy đến để tra hỏi, vị quan ấy đã nhận tội của mình, nhưng cứ vẫn bị tái phạm mãi, không chịu sửa chữa lỗi, nên Đức-vua Bồ-tát Ekarāja ban cho ông nhiều của cải rồi trục xuất toàn gia đình ra khỏi đất nước Kāsiraṭṭha. 

Vị quan ấy đến đất nước Kosala, vào chầu Đức-vua Dubbhisena tại kinh-thành Sāvatthi tâu rằng: 

– Muôn tâu Bệ-hạ, đất nước Kāsiraṭṭha phồn thịnh, kinh-thành Bārāṇasī to lớn, ngai vàng điện ngọc của Đức-vua thật nguy nga tráng lệ, 

… Nhưng Đức-vua Ekarāja ngự tại kinh-thành Bārāṇasī ấy, là Đức-vua bất tài, các đội quân bất lực, không được tập luyện kỹ. Cho nên, Bệ-hạ chỉ cần một đoàn quân nhỏ cũng có thể đánh chiếm kinh-thành Bārāṇasī một cách dễ dàng. 

Ban đầu, Đức-vua Dubbhisena Kosala không tin lời tấu trình của vị quan ác ấy, nhưng do tâu đi tâu lại nhiều lần, khiến cho Đức-vua mới thử cho một nhóm người sang vùng biên giới của đất nước Kāsiraṭṭha của Đức-vua Ekarāja, cướp giật của cải dân chúng vùng biên giới giữa ban ngày. Họ bị quân đội giữ gìn vùng biên giới bắt đem về kinh-thành Bārāṇasī, trình lên Đức-vua Bồ-tát Ekarāja xét xử. Đức-vua truyền hỏi rằng: 

– Này các ngươi! Vì sao các ngươi sang vùng biên giới cướp giật của cải của dân chúng trong đất nước của Trẫm như vậy? 

Nhóm người ấy tâu dối rằng: 

– Muôn tâu Đại-vương, chúng tiện dân đói khổ, nên đánh liều sang vùng biên giới của Đại-vương cướp giật của cải của dân chúng như vậy. 

Nghe nhóm người ấy tâu như vậy, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có tâm-từ thương yêu mọi người không phân biệt mọi chúng-sinh, có tâm-bi thương xót hoàn cảnh khổ của nhóm người ấy, nên truyền bảo rằng: 

– Này các ngươi! Nếu như vậy, Trẫm ban cho các ngươi phần của cải riêng của Trẫm, các ngươi hãy đem về làm ăn chân chánh lương thiện, chớ nên đi cướp giật của cải của người khác. 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja tha nhóm người ấy trở về nước. Sau khi trở về nước, họ đến chầu Đức-vua Dubbhisena Kosala, tâu trình lên để Đức-vua biết rõ về Đức-vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha đã đối xử tốt với tội nhân cướp giật của cải của người khác như vậy. 

Tuy nghe như vậy, nhưng Đức-vua Dubbhisena Kosala chưa dám kéo quân sang đánh chiếm. Đức-vua muốn thử một lần nữa, nên truyền lệnh cho một nhóm người đi sâu vào trong tỉnh thành, đón đường cướp giật của cải của dân chúng đi lại. Họ đều bị quân đội bảo vệ tỉnh thành ấy bắt đem về kinh-thành Bārāṇasī, trình lên Đức-vua Bồ-tát Ekarāja xét xử. Đức-vua truyền hỏi, nhóm người ấy tâu dối rằng: 

– Muôn tâu Đại-vương, chúng tiện dân đói khổ, nên đi cướp giật của cải của người khác. 

Nghe lời tâu của nhóm người ấy, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có tâm-từ thương yêu mọi người không phân biệt, mọi chúng-sinh vô lượng, có tâm-bi thương xót hoàn cảnh khổ của nhóm người ấy, nên Đức-vua Bồ-tát Ekarāja ban cho nhóm người ấy phần của cải riêng của Đức-vua, không phải tài sản của nhà nước. Đức-vua Bồ-tát Ekarāja truyền bảo họ trở về làm ăn lương thiện, chớ nên đi cướp giật của người khác, tạo nên ác-nghiệp, rồi tha nhóm người ấy trở về nước. 

Sau khi trở về nước, nhóm người ấy vào chầu Đức-vua Dubbhisena Kosala, tâu trình lên Đức-vua biết rõ về Đức-vua Ekarāja đối xử tốt với tội nhân cướp giật của người khác như vậy. 

Nghe nhóm người dân ấy tâu như vậy, Đức-vua Dubbhisena Kosala nhận xét biết rõ rằng: 

“Đức-vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha là Đức-vua có tâm-từ thương yêu mọi người, không phân biệt dân chúng trong nước và dân chúng ngoài nước, có tâm-bi thương xót hoàn cảnh khổ của mọi người, không giết hại ai cả.” 

Vì vậy, Đức-vua Dubbhisena Kosala thân chinh dẫn đầu một đoàn quân tiến sang vùng biên giới của đất nước Kāsiraṭṭha, với ý định đánh chiếm ngai vàng điện ngọc của Đức-vua Ekarāja tại kinh-thành Bārāṇasī. 

Trong thời-kỳ ấy, triều đình của Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có 1.000 tướng sĩ anh dũng, tài ba lỗi lạc, sức mạnh vô địch, có các đoàn binh tinh nhuệ, thiện chiến. Những tướng sĩ anh dũng ấy có khả năng cầm quân đánh chiếm các nước trong toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu này, để dâng lên Đức-vua Bồ-tát Ekarāja. Nhưng Đức-vua Bồ-tát Ekarāja vốn là Đức Pháp-vương thực-hành pháp-hành niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh, không oan trái với tất cả mọi chúng-sinh, chỉ mong tất cả chúng-sinh được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài mà thôi; thực-hành pháp-hành niệm rải tâm-bi vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh muôn loài, chỉ mong tất cả mọi chúng-sinh thoát khỏi mọi cảnh khổ mà thôi. 

Khi ấy, nghe tin tâu có Đức-vua Dubbhisena Kosala cầm đầu kéo quân sang đến vùng biên giới, những chiến sĩ anh dũng vào chầu Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, xin Đức-vua truyền lệnh cho họ đem quân đến vùng biên giới bắt sống Đức-vua Dubbhisena Kosala xâm chiếm, đem đến trình lên Đức-vua Ekarāja trị tội, nhưng Đức-vua truyền bảo rằng: 

– Này các khanh tướng! Trẫm không muốn các khanh tướng phải vất vả. Nếu Đức-vua Dubbhisena Kosala muốn chiếm đoạt ngai vàng điện ngọc của Trẫm thì cứ đến chiếm đoạt. 

Đức-vua Dubbhisena Kosala dẫn đầu đoàn quân qua vùng biên giới không gặp sự chống cự nào cả, nên dẫn đoàn quân đi sâu vào kinh-thành. Các tướng sĩ anh dũng ấy lại vào chầu Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, xin Đức-vua truyền lệnh cho họ đem quân đánh bắt sống Đức-vua Dubbhisena Kosala xâm chiếm, nhưng Đức-vua Ekarāja không chấp thuận. 

Đức-vua Dubbhisena Kosala dẫn đầu kéo quân đến sát cửa thành, cho vị quan đem tối hậu thư đến trình Đức-vua Bồ-tát Ekarāja với nội dung rằng: 

“Đức-vua Ekarāja nước Kāsiraṭṭha có chịu trao ngai vàng điện ngọc cho bổn vương hoặc chấp nhận chiến tranh.” 

Một lần nữa, các tướng sĩ anh dũng ấy vào chầu Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, xin Đức-vua truyền lệnh cho họ đem quân ra cửa thành đánh, bắt sống Đức-vua Dubbhisena Kosala xâm chiếm đem trị tội. Cũng như các lần trước, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja không cho phép họ đem quân ra cửa thành đánh bắt sống Đức-vua Dubbhisena Kosala, mà truyền lệnh cho các quan mở rộng 4 cửa thành. 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja trả lời tối hậu thư cho Đức-vua Dubbhisena Kosala với nội dung rằng: 

“Bổn vương không muốn chiến tranh, nếu Đại-vương muốn chiếm đoạt ngai vàng điện ngọc của bổn vương, thì hãy vào chiếm đoạt.” 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja truyền lệnh một vị quan đem thư phúc đáp trình lên Đức-vua Dubbhisena Kosala xong, truyền lệnh tất cả các quan văn võ hội triều. Khi Đức-vua Bồ-tát Ekarāja đang ngự trên ngai vàng, phía dưới các quan, các tướng sĩ đều hội triều tại cung điện. 

Khi ấy, Đức-vua Dubbhisena Kosala dẫn đầu đoàn quân kéo qua cửa thành đi thẳng đến cung điện nơi Đức-vua Bồ-tát Ekarāja đang ngự trên ngai vàng cùng với các quan, các tướng sĩ trong triều. Đức-vua xâm chiếm truyền lệnh rằng: 

– Này các khanh! Các khanh hãy bắt Đức-vua Ekarāja, trói 2 tay 2 chân bằng xích sắt, rồi đem ra cửa thành, treo 2 chân của Đức-vua Ekarāja đưa lên cao, lộn đầu xuống dưới đất, lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. 

Trong tư thế bị treo 2 chân lên cao, lộn đầu xuống đất, lủng lẳng trên hư không, trước cửa thành như thế, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh, dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc giới, rồi tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-xả vô lượng, dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm và chứng đắc các phép-thần-thông. 

Do oai lực phép-thần-thông ấy làm cho các xích sắt trói 2 tay, 2 chân bị đứt rời ra từng đoạn. Đức-vua Bồ-tát Ekarāja ngồi tư thế kiết già trên hư không, hưởng mọi sự an-lạc trong thiền. 

Trong khi ấy, Đức-vua Dubbhisena Kosala phát sinh nóng nảy thân tâm, khổ đau quằn quại, nằm la hét trên long sàng tại cung điện. Đức-vua Dubbhisena Kosala la hét rằng: 

– Tại sao ta nóng nảy khổ đau như thế này? 

Các quan tâu rằng: 

– Tâu Bệ-hạ, bởi vì Bệ-hạ bắt Đức-vua Ekarāja là Đức-vua vô tội, là Đức Pháp-vương có giới đức trong sạch, thực-hành thiện-pháp cao thượng. Bệ-hạ đã truyền lệnh treo 2 chân Đức-vua Ekarāja đưa lên cao, lộn đầu xuống dưới đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Đó là nguyên nhân làm cho Bệ-hạ nóng nảy, khổ đau quằn quại như vậy. 

Nghe các quan tâu như vậy, Đức-vua Dubbhisena Kosala liền truyền lệnh các quan thả Đức-vua Ekarāja ngay lập tức. 

Tuân lệnh Đức-vua Dubbhisena Kosala, các quan đến chỗ cửa thành, nhìn thấy Đức-vua Bồ-tát Ekarāja ngồi kiết già trên hư không với vẻ an-lạc tự tại. 

Họ trở về tâu trình lên Đức-vua Dubbhisena Kosala sự thật như vậy. Đức-vua Dubbhisena Kosala vội vàng ngự đến nơi đảnh lễ Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, cầu xin Đức-vua tha tội chết. 

Nhìn thấy Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có màu da vàng sáng ngời, có sức khoẻ dồi dào như ngày trước, Đức-vua Dubbhisena Kosala tâu rằng: 

– Tâu Đại-vương Ekarāja, ngày trước Đại-vương an hưởng mọi sự an-lạc trong cung điện. Nay Đại-vương bị treo 2 chân lên trên cao, lộn đầu xuống đất, lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. 

Vậy, do nguyên nhân nào mà Đại-vương vẫn không mất đi màu da vàng sáng ngời, không mất sức lực, mà vẫn có dồi dào sức khoẻ như ngày trước? Tâu Đại-vương. 

Nghe Đức-vua Dubbhisena Kosala tâu như vậy, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja tâu rằng: 

– Tâu Đại-vương Dubbhisena Kosala, ngày trước bổn vương đã thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật, pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật và có đức-hạnh tri túc đã được tích lũy từ lâu, trở thành thói quen như ý. 

Thông thường, nếu người nào có khổ tâm, thì người ấy có nước da bị tái, sức lực bị giảm. Còn bổn vương từ lâu đã thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật, pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật và có đức-hạnh tri túc; cho nên, bổn vương không có khổ tâm, thì không có nguyên nhân nào làm cho bổn vương mất màu da vàng sáng ngời và tiêu hao sức lực được. 

Vì vậy, bổn vương vẫn có màu da vàng sáng ngời, có sức lực dồi dào như ngày trước. 

– Tâu Đại-vương Dubbhisena Kosala, bổn vương vốn là người tạo mọi phước-thiện như bố-thí đến cho những người khác; phước-thiện giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn, thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng; thực-hành pháp-hành thiền-định với đề mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh, đã tích lũy từ lâu trở thành thói quen như ý. 

Nay, dù Đại-vương bắt bổn vương trói 2 tay, 2 chân, rồi treo 2 chân lên trên cao, lộn đầu xuống đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành, thì bổn vương vẫn chế ngự được phiền-não trong tâm, đã thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh, dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-xả vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh, định-tâm trung dung, chế ngự thọ lạc, tâm thanh-tịnh vắng lặng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm và chứng đắc các phép-thần-thông. 

Dù Đại-vương bắt bổn vương cột 2 tay, 2 chân, treo 2 chân lên trên cao, lộn đầu xuống đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành, làm cho bổn vương mất sự an-lạc trên ngai vàng, nay bổn vương hưởng sự an-lạc vi-tế và cao thượng trong thiền-định. 

Đó là nguyên nhân làm cho bổn vương vẫn có màu da vàng sáng ngời, có sức lực dồi dào như trước. 

Nghe Đức-vua Bồ-tát Ekarāja thuyết giảng giải như vậy, Đức-vua Dubbhisena Kosala phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ lời dạy của Đức-vua Bồ-tát Ekarāja. Đức-vua Dubbhisena Kosala tâu rằng: 

– Tâu Đại-vương Ekarāja, bổn vương kính dâng ngai vàng điện ngọc lại cho Đại-vương, ngự tại kinh-thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsiraṭṭha rộng lớn này. Còn phần bổn vương có bổn phận bảo vệ Đại-vương và ngăn chặn mọi kẻ thù đến xâm chiếm lãnh thổ của Đại-vương. 

Sau đó, Đức-vua Dubbhisena Kosala trị tội vị quan xúi giục đem quân sang xâm chiếm ngai vàng điện ngọc của Đức-vua Bồ-tát Ekarāja. 

Đức-vua Dubbhisena Kosala đảnh lễ Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, rồi xin phép cáo biệt, kéo quân ngự trở về nước Kosala. Đức-vua Bồ-tát Ekarāja lên ngôi vua trở lại. 

Một hôm, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja truyền lệnh các quan văn võ, các tướng sĩ đầy đủ hội triều, Đức-vua Ekarāja truyền bảo rằng: 

– Này các khanh! Bắt đầu từ hôm nay, Trẫm xin trao ngôi vua lại cho các khanh. Các khanh hãy chọn người lên ngôi làm vua trị vì đất nước Kāsiraṭṭha này. Trẫm sẽ đi vào rừng núi Hima-vanta xuất gia trở thành đạo-sĩ. 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja từ bỏ ngôi báu đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành đạo-sĩ, sống trong rừng núi ấy, giữ gìn các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và phép-thần-thông. 

Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ viên tịch, sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Quảng-quả-thiên (Vehapphalabhūmi) sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh. Chư phạm-thiên tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất. 

Sau khi thuyết về tích Ekarājajātaka xong, Đức-Phật thuyết bài kệ rằng: 

“Na maṃ koci uttasati, 

nāpi’haṃ bhāyāmi kassaci.

Mettābalenupatthaddho, 

ramāmi pavane tadā.”

Dù Đức-vua Dubbhisena Kosala truyền lệnh treo hai chân của tiền-kiếp Như-Lai, lộn đầu xuống đất, treo lủng lẳng trên hư không trước cửa thành, cũng không làm cho tiền-kiếp Như-Lai run sợ. Tiền-kiếp Như-Lai không hề biết sợ bất luận là ai. 

Dù trong hoàn cảnh bất lợi, ngặt nghèo ấy, tiền-kiếp Như-Lai vẫn cảm thấy an-lạc do nhờ năng lực tâm-từ hỗ trợ thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả chúng-sinh. 

Đó là pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng của Như-Lai. 

Tích Ekarājajātaka liên quan đến kiếp hiện-tại 

Trong tích Ekarājajātaka này, Đức-vua Bồ-tát Ekarāja là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, tạo pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng trong kiếp quá-khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu-kiếp của những nhân vật trong tích Ekarājajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau: 

– Đức-vua Dubbhisena Kosala, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Ānanda. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, nay kiếp hiện-tại là Đức-Phật Gotama. 

Mười pháp-hạnh ba-la-mật 

Tóm lược tích Đức-vua Bồ-tát Ekarāja, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng, ngoài ra, còn có 9 pháp-hạnh ba-la-mật phụ khác cũng đồng thời thành tựu như sau: 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja trao lại ngôi báu cho các quan, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja giữ gìn giới, đó là pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja từ bỏ ngai vàng đi vào rừng Himavanta xuất gia trở thành đạo-sĩ, đó là pháp-hạnh xuất-gia ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có trí-tuệ sáng suốt, đó là pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có sự tinh-tấn không ngừng, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có đức tính nhẫn-nại, đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja nói lời chân-thật, đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja nói lời phát-nguyện vững chắc, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật. 

– Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có tâm xả trung dung không thiên vị, đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật. 

Đó là 9 pháp-hạnh ba-la-mật đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng của Đức-vua Bồ-tát Ekarāja trong tích Ekarājajātaka này. 

Nhận xét về tích Đức-vua Bồ-tát Ekarāja 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng (mettāparamatthapāramī). 

Pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng là 1 trong 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng cũng là 1 trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ, để hỗ trợ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha). 

Tâm-từ đó là vô-sân tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm có đối tượng là chúng-sinh đáng yêu đáng kính (piyamanāpasattapaññatti). Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật không oan trái với tất cả chúng-sinh, mong sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến tất cả chúng-sinh muôn loài, mà không phân biệt người thân với kẻ thù. 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja thường ngày thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến chúng-sinh muôn loài, không oan trái với tất cả chúng-sinh, mong sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến tất cả chúng-sinh muôn loài, mà không phân biệt người thân với kẻ thù. 

Đức-vua Bồ-tát Ekarāja có đức-hạnh tri-túc hài lòng hoan hỷ với những gì đang có, nên chế ngự được tham-tâm không phát sinh, thường ngày thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật hỗ trợ pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật nên chế ngự được sân-tâm không phát sinh, nên chế ngự được mọi phiền-não, có đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm do phiền-não. 

Khi Đức-vua Dubbhisena Kosala truyền lệnh bắt Đức-vua Bồ-tát Ekarāja cột 2 tay, 2 chân, treo 2 chân lên cao, lộn đầu xuống đất, lủng lẳng trên hư không trước cửa thành. Trong tình thế ngặt nghèo bất lợi như vậy, do nhờ Đức-vua Bồ-tát Ekarāja đã thực-hành pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật và pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật đã trở thành thói quen, nên chế ngự được sân-tâm không phát sinh, chỉ có đại-thiện-tâm phát sinh mà thôi. Đức-vua Bồ-tát Ekarāja thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh không phân biệt người thân với kẻ thù, xóa bỏ ranh giới tâm-từ, dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục chuyển sang thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả vô lượng đến tất cả mọi chúng-sinh không phân biệt người thân với kẻ thù, xóa bỏ ranh giới tâm-xả, dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm và chứng đắc các phép-thần-thông. 

(Xong pháp-hạnh tâm-từ ba-la-mật bậc thượng) 

Ba-la-mật Tâm Từ Bậc Trung - Tích Suvaṇṇasāmajātaka Tiền Thân Đức Phật
Những Bài Kinh Liên Quan Đến Pháp Nhẫn Nại

Nền Tảng Phật Giáo

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nền Tảng Phật Giáo has 640 posts and counting. See all posts by Nền Tảng Phật Giáo

Nền Tảng Phật Giáo

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *