NGHIỆP TIỀN KIẾP CỦA ĐỨC PHẬT GOTAMA
Đức Phật Gotama là kết quả của sự tích lũy đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, trải qua vô số tiền kiếp trong quá khứ, kể từ kiếp đầu tiên có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Gotama.
Đức Bồ Tát kiếp đầu tiên của Đức Phật Gotama
Đức Thế Tôn ngự trên tảng đá quý cùng với số đông chư Tỳ-khưu, ở ven rừng có nhiều cây hoa thơm gần hồ Anotatta. Khi ấy Đức Thế Tôn truyền dạy thiện nghiệp của Ngài đã tạo trong tiền kiếp đầu tiên rằng:
“Này chư Tỳ-khưu, các con nên lắng nghe thiện nghiệp mà Như Lai đã tạo trong tiền kiếp. Như Lai thấy một vị Tỳ-khưu hành pháp hạnh đầu đà sống trong rừng, nên phát sinh đức tin trong sạch, bèn dâng cúng dường “một tấm vải cũ” đến vị Tỳ-khưu ấy. Ngay khi ấy, Như Lai phát sinh đại bi tâm có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác để tế độ, cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đó là tiền kiếp Đức Bồ Tát đầu tiên của Như Lai có ý nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chính nhờ thiện nghiệp bố thí cúng dường “tấm vải cũ” trong tiền kiếp đầu tiên ấy, dẫn đến kiếp hiện tại đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Gotama này”.
Đức Bồ Tát kiếp chót của Đức Phật Gotama
Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama trải qua vô số kiếp tạo các pháp hạnh ba-la-mật trong ba thời kỳ:
– Thời kỳ Đức Bồ Tát có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, suốt 7 a-tăng-kỳ.
– Thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh biết ý nguyện của Đức Bồ Tát, suốt 9 a-tăng-kỳ.
– Thời kỳ Đức Bồ Tát được 24 Đức Phật thọ ký xác định thời gian còn lại, Đức Bồ Tát chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama. Bắt đầu từ Đức Phật Dīpaṅkara đầu tiên cho đến Đức Phật Kassapa thứ 24 cuối cùng, trải qua suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, cho đến Đức Bồ Tát kiếp chót của Ngài đó là kiếp Thái tử Siddhattha của Đức vua Suddhodana và chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī. Năm 16 tuổi, Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha lên ngôi Vua và thành hôn với Công chúa Yasodhara; năm 29 tuổi xuất gia; năm 35 tuổi, Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama; năm 80 tuổi, Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Quả nghiệp thiện và bất thiện của Đức Phật Gotama
Đức Bồ Tát, tiền thân của Đức Phật Gotama, đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật thuộc nghiệp thiện cho quả chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Song trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, có khi Đức Bồ Tát cũng tạo những nghiệp bất thiện (nghiệp ác); những nghiệp ác ấy có cơ hội cho quả trong kiếp chót, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Nghiệp ác cũ mà Ngài đã tạo trong tiền kiếp quá khứ cho quả khổ trong kiếp chót hiện tại như sau:
Nghiệp cũ của Đức Phật Gotama
Gọi là nghiệp cũ là để phân biệt với nghiệp mới.
Đối với Đức Phật và chư Thánh Arahán, chỉ còn có nghiệp cũ mà thôi, không còn tạo thêm nghiệp mới nữa. Ngoài Đức Phật và chư Thánh Arahán ra, còn lại tất cả chúng sinh kể cả ba bậc Thánh Nhân là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai đều có nghiệp cũ, và vẫn còn tạo nghiệp mới. Mỗi nghiệp thiện, mỗi nghiệp bất thiện, nếu có cơ hội, thì có thể cho quả ngay trong kiếp hiện tại, kiếp thứ hai và kiếp thứ ba cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn.
Kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama. Khi còn là Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, đôi khi Ngài cũng có tạo những nghiệp bất thiện, hay gọi là nghiệp ác cũ của Ngài; những nghiệp ác cũ này cũng đã cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp. Nay kiếp hiện tại, tuy Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, những ác nghiệp cũ ấy vẫn còn có năng lực chút đỉnh; nếu có cơ hội, thì vẫn cho quả của chúng, không ngoại trừ Đức Phật.
Đức Phật đã thuyết giảng trong bộ Apadāna phần Buddhāpadānavề những nghiệp ác cũcho quả được tóm lược như sau:
Đức Bồ Tát hành khổ hạnh suốt sáu năm trường (dukkarakiriyā)
Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp Đức Phật Gotama, sinh trong dòng họ Bàlamôn cao quý, tên là Jotipāla, nhằm vào thời kỳ Đức Phật Kassapa đang xuất hiện trên thế gian.
Đức Bồ Tát Jotipāla có tính ngã mạn về dòng dõi, nên không có đức tin nơi Tam Bảo; (còn một nguyên nhân khác liên quan đến quả nghiệp bất thiện của Đức Phật Kassapa). Cho nên, khi nghe đến danh hiệu Đức Phật Kassapa, Đức Bồ Tát Jotipāla nói rằng:
“Samôn đầu trọc ấy, đâu có dễ dàng chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác! Chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác là điều khó khăn lắm!”.
Đức Bồ Tát Jotipāla có một người bạn tốt tên là Ghaṭikāra, Ghaṭikāra vốn là một cận sự nam có đức tin trong sạch nơi Đức Phật Kassapa, thường động viên khuyến khích Đức Bồ Tát Jotipāla đến hầu Đức Phật Kassapa, nhưng lần nào Đức Bồ Tát Jotipāla cũng không chịu đi. Một hôm, Ghaṭikāra bày kế mời Đức Bồ Tát Jotipāla đi đến tắm tại một bến nước gần chỗ ở của Đức Phật Kassapa và chư Tỳ-khưu Tăng. Khi tắm xong, Ghaṭikāra liền mời Đức Bồ Tát Jotipāla đi đến hầu Đức Phật Kassapa, Đức Bồ Tát Jotipāla không chịu đi; Ghaṭikāra nghĩ rằng không đi không được, Ghaṭikāra liền nắm lấy đầu tóc của Đức Bồ Tát Jotipāla dắt lôi đi. Đức Bồ Tát Jotipāla không còn cách nào khác, đành phải đi theo đến hầu Đức Phật Kassapa. Khi ngồi lắng nghe chánh pháp, Đức Bồ Tát Jotipāla phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật Kassapa, kính xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài. Về sau, Tỳ-khưu Jotipāla được Đức Phật Kassapa thọ ký xác định thời gian còn lại cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama. Đức Phật Kassapa là Đức Phật thứ 24 cuối cùng thọ ký Đức Bồ Tát Jotipāla tiền kiếp của Đức Phật Gotama.
Đức Bồ Tát tiếp tục tạo cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót là kiếp Đức Bồ Tát Siddhattha đi xuất gia năm 29 tuổi. Do nghiệp ác khẩu xúc phạm đến Đức Phật Kassapa ấy, cho nên, Đức Bồ Tát phải chịu hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trườngròng rã, tại núi rừng gần làng Uruvela, bởi vì nghiệp ác khẩu ấy cho quả khổ hạnh suốt 6 năm.
Về sau, từ bỏ pháp khổ hạnh, Đức Bồ Tát hành theo pháp hành Trung Đạo dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp, đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama.
Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:
Trong thời quá khứ ấy, Như Lai là Bàlamôn Jotipāla đã xúc phạm đến Đức Phật Kassapa rằng:
“Samôn trọc đầu ấy, đâu có dễ dàng chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác là điều khó lắm”.
Vì quả của nghiệp ác khẩu ấy, nên Như Lai phải hành pháp khổ hạnh tại núi rừng gần làng Uruvela suốt 6 năm trường ròng rã. Do bởi nghiệp ác cũ, nên đã hành pháp khổ hạnh sai lầm. Như Lai không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác bằng pháp hành khổ hạnh ấy.
Sau khi từ bỏ pháp hành khổ hạnh, Như Lai hành theo pháp hành Trung Đạo dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
Nay, Như Lai không còn tạo nghiệp ác và nghiệp thiện nữa, đã diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp; không còn nóng nảy khổ tâm, không còn sầu não, thống khổ. Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn.
Đức Phật bị nàng Ciñcamāṇavikā vu khống giữa tứ chúng (abbhakkhāna)
Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người đã vu khống Ngài Đại đức Nanda, bậc Thánh Thanh Văn của Đức Phật.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới thoát khỏi cõi địa ngục. Mỗi khi được tái sinh làm người, Đức Bồ Tát thường bị vu khống những điều xấu, bởi do năng lực của nghiệp ác khẩu đã tạo trong tiền kiếp quá khứ ấy.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian. Danh thơm tiếng tốt của Ngài lan truyền khắp mọi nơi, các hàng đệ tử mỗi ngày thêm một đông, gồm các Đức vua, các quan, các phú hộ, dân chúng, chư thiên, phạm thiên… lắng nghe chánh pháp, rồi thực hành theo chánh pháp chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân từ bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai cho đến bậc Thánh Arahán. Những người nào chưa chứng đắc thành bậc Thánh Nhân, những người ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin quy y nương nhờ nơi Tam Bảo, trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Thực ra, đại đa số những người ấy, trước kia có truyền thống theo các giáo phái ngoại đạo, Bàlamôn v.v… Nay, khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, họ trở thành đệ tử của Đức Phật. Đó là điều mà làm cho các nhóm tu sĩ ngoại đạo cảm thấy tổn thương rất nhiều, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm; cho nên, sự cúng dường, lợi lộc càng ngày càng giảm dần, đời sống của các tu sĩ ngoại đạo càng ngày càng thiếu thốn, khổ cực hơn xưa.
Các nhóm tu sĩ ngoại đạo họp bàn với nhau, bày mưu tính kế thâm độc để làm hạ uy tín của Đức Phật.
Thời ấy, trong thành Sāvatthi có người kỹ nữ duyên dáng xinh đẹp như thiên nữ, tên là Ciñcāmāṇavikā, nàng vốn là đệ tử ngoan đạo của các tu sĩ ngoại đạo.
Các tu sĩ ngoại đạo nghĩ ra diệu kế:
“Chúng ta dùng nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai với Samôn Gotama, để gây ra sự hiểu lầm, làm mất uy tín của y”.
Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, làm lễ các tu sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao hôm âý các tu sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng thoáng nghĩ: “Mình có lỗi gì đây!”.
Nàng bạch với vị Trưởng Lão rằng:
– Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?
Vị Trưởng Lão tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng:
– Không! Này con, con là một đệ tử ngoan đạo, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý Thầy khổ cực, thiếu thốn lắm con à! Vì vậy, quý Thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì.
Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên nóng lòng hỏi:
– Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ, sung túc lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?
– Này Ciñcāmāṇavikā, con không biết gì hay sao? Chính Samôn Gotama đã làm khổ quý Thầy, chính Samôn Gotama đã chiếm đoạt những người đệ tử giàu có, nên quý thầy mất những lợi lộc cúng dường… Do đó, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy.
Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa:
– Vậy mà con có hay biết gì đâu. Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài?
Các tu sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói:
– Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý Thầy đó thôi.
Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:
– Không, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi.
Vị tu sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:
– Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý Thầy, thì chỉ có một phương kế duy nhất, con hãy dùng sắc đẹp duyên dáng đầy quyến rũ của con, giả làm người mang thai với Samôn Gotama. Nếu con làm được như vậy, thì sẽ làm giảm uy tín của Samôn Gotama. Như vậy, phần đông tín đồ của Samôn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta.
Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói:
– Đúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận, để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.
Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi, sau khi đến nghe Đức Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay, đang đi trên đường hướng đến chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:
– Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?
Nàng Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý gây ra cho mọi người sự nghi ngờ:
– Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!
Nói xong, nàng liền bước đi theo hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.
Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận sự nam, cận sự nữ đem những phẩm vật đến chùa Jetavana để cúng dường Đức Phật và Tăng chúng, thì họ thấy nàng Ciñcāmāṇa-vikā từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi,
Người ta lại hỏi nàng:
– Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?
Nàng Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp:
– Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!
Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận sự nam, cận sự nữ khác hỏi rằng:
– Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu, mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?
Nàng Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.
– Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật rằng: “Đêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuti chung với Samôn Gotama, để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi”.
Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành.
Khi nghe nàng Ciñcāmāṇavikā nói vậy, có số cận sự nam, cận sự nữ còn phàm nhân thiểu trí nên sanh tâm bán tín bán nghi, cho đến khi trải qua 3 – 4 tháng, thì nàng Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài, làm như người đang mang thai. Có một số người phàm không có trí tuệ, không hiểu biết về giáo pháp của Đức Phật, ngờ vực rằng nàng Ciñcāmāṇavikā có phải mang thai hay không!
Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức Thế Tôn đến hồi chung cuộc. Nhóm tu sĩ ngoại đạo gọi nàng Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có bốn đầu dây ràng, bảo nàng Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật, xong nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng cây đánh ở sống bàn tay, bàn chân cho sưng lên, nhìn thấy như người đàn bà sắp đến thời kỳ sinh nở.
Đức Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā
Vào một buổi chiều, khi Đức Phật đang ngự trên pháp toà, tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng đệ tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, rồi đến trước Đức Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:
– Này ông Đại Samôn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ? Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ…. Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapindika, bà Visākhā… lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thoả mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi, phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!
Nghe nàng Cincāmānavikā mắng nhiếc, Đức Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp toà rồi từ tốn nói:
“Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvam vā vitathabhāvam vā ahameva ca tvanca jānāma”
– Này cô em! Cô nói lời chân thật hay giả dối, chỉ có Như Lai và cô biết rõ mà thôi?
Nàng Cincāmānavikā liền đáp:
– Đúng vậy, này ông Đại Samôn! Chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi!
Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam Thập Tam Thiên, bảo toà của vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên nhãn quan sát nguyên nhân, vua trời thấy rõ ràng nàng Cincāmānavikā đang mắng nhiếc Đức Phật giữa tứ chúng đệ tử, bởi những chuyện không có thật. Đây là âm mưu thâm độc của nhóm tu sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Cincāmānavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức Phật giữa tứ chúng đệ tử. Vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Vua trời cùng bốn thiên nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavana ngay tức khắc. Bốn vị thiên nam, theo lệnh của vua trời hoá thành bốn con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt bốn sợi dây cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai buộc chặt sau lưng nàng Cincāmānavikā, đồng thời vua trời hoá một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm hai bàn chân của nàng Cincāmānavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.
Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên được phơi bày trước mắt tứ chúng đệ tử. Nàng Cincāmānavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người đánh đập, nhổ nước bọt, rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa. Nàng Cincāmānavikā thất vọng, thất tha thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi rút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất. Sau khi nàng Cincāmānavikāchết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh vào đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ do nghiệp ác đã tạo.
Chuyện nàng Cincāmānavikā vu khống Đức Phật đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là âm mưu thâm độc đê tiện của nhóm tu sĩ ngoại đạo. Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức tin, nên không còn phát sinh tâm cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa, đời sống của nhóm tu sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực, nay lại càng tệ hại hơn nữa.
Trái lại, dân chúng khắp mọi nơi phát sanh thiện tâm trong sạch cúng dường Đức Phật và chư Tăng các thứ vật dụng sung túc; số người nào chưa có đức tin thì nay lại có đức tin nơi Tam Bảo; số người nào đã có đức tin nơi Tam Bảo rồi, đức tin lại càng thêm tăng trưởng.
Đức Phật đã thắng lời vu khống của nàng Cincāmānavikā nhờ pháp an định.
Như Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:
Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai đã từng vu khống Đại đức Nanda; bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.
Mỗi khi được tái sinh làm người, Như Lai thường bị vu khống những điều xấu không có thật, bởi do năng lực của nghiệp ác khẩu mà Như Lai đã tạo trong thời quá khứ ấy.
Do năng lực của nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, kiếp chót này bị nàng Cincāmānavikā vu khống Như Lai những điều không có thật, giữa tứ chúng đệ tử.
Đức Phật bị vu khống do bởi cô tu nữ ngoại đạo Sundarī
Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, tên là Munāḷi, Đức Bồ Tát thường thân cận gần gũi với kẻ ác, nên sinh thói hư tật xấu. Một hôm, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác Surabhi, Đức Bồ Tát Munāḷi liền buông lời vu khống rằng:
“Samôn trọc đầu này phá giới! Hành pháp thấp hèn!”
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy, cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi địa ngục. Mỗi khi được tái sinh làm người, thường bị vu khống những điều xấu, không có thật.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, danh thơm tiếng tốt của Ngài lan truyền khắp mọi nơi. Các hàng đệ tử mỗi ngày một thêm đông; ngược lại đệ tử của các nhóm ngoại đạo mỗi ngày một giảm dần, cho nên đời sống của tu sĩ ngoại đạo lâm vào cảnh thiếu thốn khổ cực hơn xưa. Do đó, họ bày mưu tính kế làm mất uy tín của Đức Phật.
Thời ấy, nữ tu sĩ ngoại đạo tên Sundarī rất xinh đẹp, đến viếng thăm các tu sĩ ngoại đạo, đảnh lễ xong rồi, thấy nhóm tu sĩ ngoại đạo ngồi im lặng không nói với cô một lời nào.
Cô bèn bạch hỏi:
– Kính thưa quý Ngài, con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con lời nào?
Một tu sĩ ngoại đạo than vãn rằng:
– Tất cả chúng tôi bị Samôn Gotama làm khổ, mà con không quan tâm hay biết gì, đó là lỗi cuả con đó!
– Con có thể vu khống Samôn Gotama được hay không?
– Kính thưa quý Ngài, con có thể làm được.
Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi, sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana xong, họ đảnh lễ Đức Phật rồi xin phép trở về nhà, họ thường gặp cô tu sĩ Sundarī cầm một bó hoa trong tay, đang đi trên đường hướng đến ngôi chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:
– Chiều tối rồi, cô đi đâu vậy?
Cô tu nữ Sundarī trả lời để gây ra một sự nghi ngờ:
– Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!
Nói xong, cô liền bước đi theo hướng đến ngôi chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.
Rồi sáng hôm sau, khi có số cận sự nam, cận sự nữ đem phẩm vật đến chùa Jetavana, để cúng dường Đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng, họ lại thấy cô tu nữ Sundarī từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi. Người ta hỏi cô:
– Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu, mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?
Cô tu nữ Sundarī muốn gây ra sự ngờ vực bèn đáp rằng:
– Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Nếu quý vị muốn biết, thì tôi sẽ nói thật: “Đời tôi rất vinh hạnh, đêm đêm được đến phục vụ Samôn Gotama tại cốc Gandhakuṭi của Ngài”.
Nhóm tu sĩ ngoại đạo chờ tin này, nay có cơ hội, họ liền truyền tin vu khống rằng:
– Thưa tất cả mọi người, quý vị đã nghe rõ hành vi xấu xa của Samôn Gotama như vậy!
Chính cô tu nữ Sundarī cũng rêu rao vu khống hành vi xấu của Đức Phật đối với cô nữa, gieo rắc hoang mang, gây ra sự ngờ vực đến mọi người.
Đối với các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật thì chắc chắn không bao giờ tin lời vu khống của các tu sĩ nhóm ngoại đạo và của cô tu nữ ngoại đạo Sundarī; còn đối với một số phàm nhân thiểu trí phát sinh tâm ngờ vực. Đó là âm mưu của các tu sĩ ngoại đạo làm giảm uy tín của Đức Phật, để mong phục hồi uy tín của mình.
Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:
Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là người si mê tên Munāḷi đã xúc phạm đến Đức Phật Độc Giác Surabhi, sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục phải chịu khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy.
Do năng lực nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, trong kiếp hiện tại này Như Lai bị vu khống do bởi cô tu nữ ngoại đạo Sundarī.
Đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng bị vu khống giết tu nữ Sundarī để giấu tội lỗi (abbhakkhāna)
Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh ra trong gia đình thuộc dòng dõi Bàlamôn, Đức Bồ Tát là bậc đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng, tinh thông các bộ sách Bàlamôn. Ngài làm thầy dạy nhóm đệ tử 500 vị Bàlamôn tại khu rừng dưới chân núi Himavantu. Một hôm, vị Đạo sĩ chứng đắc bát thiền, ngũ thông có nhiều oai lực, đến tu viện của Đức Bồ Tát. Đức Bồ Tát gặp vị Đạo sĩ này, liền phát sinh tâm ganh tỵ, nên vu khống vị Đạo sĩ này rằng:
“Vị Đạo sĩ này lừa dối! Vị Đạo sĩ này thích hưởng dục lạc ngũ trần…”
Đức Bồ Tát còn nói với nhóm đệ tử của mình về vị Đạo sĩ ấy là người lừa dối, thích hưởng dục lạc ngũ trần…
Nhóm đệ tử tin theo lời của Thầy, đi vào xóm làng khất thực, cũng nói xấu vị Đạo sĩ ấy như vậy.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi địa ngục.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, danh thơm tiếng tốt của Ngài lan truyền khắp mọi nơi, từ Vua chúa, các nhà phú hộ, dân chúng có đức tin nơi Đức Phật, Đức Pháp, chư Tỳ-khưu Tăng, họ cúng dường bốn thứ vật dụng đầy đủ sung túc. Ngược lại, các nhóm ngoại đạo; phần đông tín đồ ngoại đạo từ bỏ các tu sĩ ngoại đạo, đến kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Họ không còn hộ độ cúng dường đến các tu sĩ ngoại đạo; cho nên, đời sống các tu sĩ ngoại đạo càng ngày càng thiếu thốn khổ cực hơn trước.
Dù các tu sĩ ngoại đạo và cô Sundarī vu khống Đức Phật những điều xấu không có thật, vẫn không làm giảm uy tín Đức Phật được, nên nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng đến thủ đoạn thâm độc là thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết cô tu nữ ngoại đạo Sundarī, rồi giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana. Nhóm côn đồ nghiện rượu đã hành động y theo kế của họ.
Sau đó, nhóm tu sĩ ngoại đạo xin vào trình Đức vua Pasenadi Kosala.
– Tâu Đức vua, cô tu nữ Sundarī, đệ tử của chúng tôi đã mất tích.
Đức vua truyền lệnh cho phép đi tìm kiếm cô tu nữ Sundarī.
Nhóm tu sĩ ngoại đạo kéo nhau giả bộ đi tìm, đến gặp xác chết cô tu nữ Sundarī trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana, họ đặt xác chết cô tu nữ Sundarī trên cáng đem vào trình Đức vua, rồi khiêng đi quanh thành Sāvatthi rêu rao vu khống rằng:
“Thưa tất cả mọi người, xin quý vị hãy xem hành vi xấu xa của Samôn Gotama và nhóm đệ tử của y, đã giết chết cô tu nữ Sundarī, đệ tử ngoan đạo của chúng tôi, để che giấu tội lỗi của Samôn Gotama”.
Đức vua Pasenadi Kosala anh minh và sáng suốt, truyền lệnh quân lính đi điều tra tìm rõ kẻ đã giết cô tu nữ Sundarī.
Khi ấy, nhóm côn đồ nghiện rượu đang uống rượu say sưa rồi cãi cọ với nhau và đổ lỗi cho nhau rằng:
– Mày giết cô tu nữ Sundarī!
– Không phải tao, mà chính mày!
Lính trong triều đình nghe được câu chuyện, liền bắt nhóm côn đồ nghiện rượu đem trình lên Đức vua xét hỏi.
Đức vua truyền hỏi:
– Các ngươi đã giết chết cô tu nữ Sundarī có phải không?
– Muôn tâu Đức vua! Dạ, phải, chính bọn con giết cô tu nữ Sundarī.
Đức vua truyền hỏi tiếp:
– Ai thuê mướn các người giết chết cô tu nữ Sundarī.
Nhóm côn đồ nghiện rượu liền khai:
– Muôn tâu Đức vua! Chính nhóm tu sĩ ngoại đạo thuê mướn chúng con giết chết cô tu nữ Sundarī, rồi bảo chúng con đem giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào của ngôi chùa Jetavana.
Đức vua liền truyền lệnh cho bắt nhóm tu sĩ ngoại đạo, bắt chúng phải nhận tội; rồi phải đi quanh thành Sāvatthi cải chính lại lời vu khống Đức Phật Gotama và chư Tỳ-khưu Tăng trước kia rằng: “Kính thưa tất cả mọi người, chính chúng tôi là người đã thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết chết cô tu nữ Sundarī, để đổ tội cho Samôn Gotama và chư Tỳ-khưu Tăng Thanh Văn đệ tử của Ngài. Sự thật, Đức Phật Gotama và nhóm Thanh Văn đệ tử hoàn toàn vô tội”.
Khi nhóm tu sĩ ngoại đạo làm như vậy, dân chúng trong thành Sāvatthi không còn ngờ vực gì nữa. Đức vua bắt nhóm côn đồ nghiện rượu và nhóm tu sĩ ngoại đạo chủ mưu giết hại cô tu nữ Sundarī hành hình.
Sau đó, Đức Phật và chư Tỳ-khưu Tăng được phần đông dân chúng gần xa phát sinh đức tin nơi Tam Bảo.
Sở dĩ Đức Phật và nhóm Tỳ-khưu Tăng bị vu khống điều xấu, không có thật, là vì nghiệp ác cũ của Đức Bồ Tát, Ngài đã vu khống vị Đạo sĩ trong thời quá khứ, còn năng lực chút đỉnh, nên kiếp chót này có cơ hội cho quả của nghiệp ác cũ ấy.
Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Như Lai, là Bàlamôn học xong các bộ sách Bàlamôn, làm Thầy dạy nhóm 500 đệ tử trong khu rừng lớn gần núi Himavanta.
Một vị Đạo sĩ chứng đắc bát thiền và ngũ thông có nhiều oai lực đến tu viện, Như Lai nhìn thấy vị Đạo sĩ ấy phát sinh tâm ganh tỵ đã nói xấu vị Đạo sĩ ấy; Như Lai còn nói với nhóm đệ tử rằng: “Đạo sĩ này lừa dối, Đạo sĩ này thích hưởng dục lạc ngũ trần”. Khi Như Lai nói như vậy, nhóm đệ tử tin theo lời của Như Lai, chúng đi khất thực đến mọi gia đình nói với mọi người rằng: “Đạo sĩ ấy lừa dối, vị Đạo sĩ ấy là người thích hưởng dục lạc ngũ trần”, sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy.
Do năng lực nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên kiếp hiện tại Như Lai và nhóm 500 Tỳ-khưu đều bị vu khống, về cái chết của cô tu nữ Sundarī.
Đức Phật bị lửa phỏng da bàn chân
Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là đứa trẻ nghịch ngợm đang chơi ở ngoài đường, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, Đức Bồ Tát đốt lửa vây quanh Ngài.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát khỏi cõi địa ngục.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, do năng lực của nghiệp ác ấy còn dư sót chút đỉnh, nên Đức Phật bị lửa phỏng da bàn chân.
Tuyển chọn nhóm xạ thủ bắn Đức Phật
Trong quá khư, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là một tướng lĩnh giết hại nhiều kẻ thù.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, do năng lực của nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta tuyển chọn nhóm xạ thủ cung nỏ bắn tên, để giết hại Đức Phật. Nhóm xạ thủ không thể bắn mũi tên ra được, đến đảnh lễ sám hối; Đức Phật thuyết pháp tế độ, họ đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Đức Phật bị đụng mảnh đá nơi ngón chân cái (Silāvedho)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, có một người em trai cùng cha khác mẹ. Khi cha mẹ qua đời, để lại một gia tài lớn. Hai anh em mỗi người có một đám gia nhân tùy tùng riêng; vì nghe lời xúi giục của đám gia nhân ấy, nên hai anh em gây gỗ, sát hại lẫn nhau, để chiếm đoạt toàn bộ tài sản của cải về mình. Đức Bồ Tát là anh có sức mạnh hơn người em, xô đẩy người em té xuống hốc đá, rồi dùng đá lăn đè chết người em trai.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, còn Tỳ-khưu Devadatta cùng trong dòng dõi là con trai bà cô và ông cậu, cũng là hoàng huynh của Công chúa Yasodharā.
Tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta và tiền kiếp của Đức Bồ Tát Siddhattha là hai người buôn bán nữ trang được tóm lược như sau:
Thuở quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật, là người buôn bán nữ trang lương thiện, và tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta cũng là người buôn bán nữ trang, nhưng có tánh tham lam và gian ác. Một gia đình trước kia là phú hộ, nhưng bây giờ tất cả tài sản đều bị khánh kiệt, chỉ còn cái mâm bằng vàng ròng bị bụi bám đầy. Thừa kế gia đình ấy chỉ còn một bà ngoại già và đứa cháu gái, họ không hề biết gì về giá trị của chiếc mâm vàng ấy.
Một hôm, có người buôn bán nữ trang (tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta) từ xa đến, đi ngang nhà, cô cháu gái thấy, liền năn nỉ xin bà ngoại mua cho mình một món nữ trang.
Bà ngoại già âu yếm bảo với cháu gái rằng: “Này cháu yêu quý! Ngoại không tiếc gì cho cháu cưng đâu. Hiềm một nỗi gia đình mình hiện nay nghèo quá, cơm áo không đủ dùng, thì lấy đâu có tiền bạc mà mua nữ trang cho cháu. Chỉ còn cái mâm cũ kỹ kia, để ngoại hỏi người lái buôn xem thử có đổi được món nữ trang nhỏ nào cho cháu không”.
Bà liền gọi người lái buôn vào, đưa cái mâm cũ kỹ cho y xem. Sau khi săm soi kỹ, với con mắt nhà nghề, người lái buôn biết rõ là cái mâm bằng vàng ròng quý giá, mà hai bà cháu không hề biết được giá trị của nó. Tánh vốn tham lam và gian ác, y tự nghĩ: “Ta phải chiếm đoạt cái mâm vàng này, mà chỉ cần đổi một món nữ trang nho nhỏ không đáng giá”. Nghĩ xong, y giả vờ bực dọc ném cái mâm xuống đất rồi nói:
– Cái mâm cũ kỹ này chẳng có giá trị gì cả, nó không đáng giá 12 xu rưỡi! Lấy đâu để đổi lấy một món nữ trang?
Nói xong, người lái buôn tham lam và gian ác kia liền bỏ đi nơi khác.
Ngày hôm sau, người lái buôn lương thiện (Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật) đi ngang nhà, cô cháu gái khóc lóc năn nỉ đòi nữ trang cho bằng được. Vì rất thương yêu và muốn vừa lòng cháu, bà gọi người lái buôn vào nhà, lại đem cái mâm cũ kỹ kia đưa cho người lái buôn này xem. Lần này, thì bà kể lể về hoàn cảnh khốn khổ của mình cho người lái buôn nghe, với hy vọng đổi được món nữ trang nhỏ nào đó cho cháu.
Nhà lái buôn lương thiện cầm cái mâm, lau chùi lớp bụi, phát hiện ra cái mâm này không chỉ là một cái mâm bằng vàng ròng tinh chất quý giá, mà còn chạm trổ những phù điêu, hoa văn tinh tế, công phu, thật là một nghệ thuật tuyệt vời.
Đức Bồ Tát hai tay nâng niu cái mâm và từ tốn thưa rằng:
– Thưa mẹ, cái mâm này không những bằng vàng ròng tinh chất, mà còn là một cổ vật quý giá, ít nhất khoảng trên 100 ngàn Kahāpana (đồng tiền vàng Ấn Độ thời xưa). Tất cả giá trị nữ trang và tiền bạc của con mang theo bên người chưa bằng được một phần trăm, thì con đâu dám đụng đến cổ vật vô giá ấy.
Bà ngoại già vô cùng cảm kích trước tấm lòng chân thật của người lái buôn lương thiện, chân thành nói:
– Này con, chính tấm lòng chân thật của con quý hơn cả cổ vật này. Hôm trước có người lái buôn nữ trang như con đã chê cái mâm này. Y nói cái mâm này chưa đáng giá 12 xu rưỡi. Khi đi, y còn ném cái mâm xuống đất và thốt lên những lời hằn học nữa. Nếu quả thật, nó bằng vàng quý giá như con nói, thì đó chính là quả phước của con. Vậy, con hãy lấy đi rồi cho cháu ta một món nữ trang nào cũng được, con đừng ái ngại.
Sau nhiều lần từ chối không được, Đức Bồ Tát đành trao lại tất cả số nữ trang và trọn số tiền của mình, tổng cộng giá trị khoảng một ngàn (1.000) đồng tiền vàng cho hai bà cháu, chỉ xin lại tám đồng để chi phí dọc đường.
Đức Bồ Tát đã đem cái mâm vàng ra đi. Sau đó, thì người lái buôn tham lam gian ác trở lại tìm bà cụ, y bảo:
– Này bà già, hãy đem cái mâm cũ kỹ kia ra đây, tôi sẽ bố thí cho cháu bà một món nữ trang nho nhỏ!
Bà cụ nhìn thấy y, con người gian giảo đáng khinh bỉ, bà bảo:
– Này ông kia, cái mâm vàng của tôi đáng giá 100 ngàn đồng, sao trước đây ông chê, cho rằng nó chưa đáng giá 12 xu rưỡi? Tôi đã bán cho một người lái buôn nữ trang lương thiện, ông ấy đã trao cho tôi trọn số tiền 500 đồng của mình và tất cả số nữ trang còn lại. Tôi đã trao cái mâm vàng cho người ấy mang đi xa rồi.
Nghe nói vậy, người lái buôn tham lam và gian ác cảm thấy vô cùng tiếc rẻ gào lên:
– Ôi! Ta đã bị thiệt hại quá lớn rồi! Tên lái buôn kia đã cướp cái mâm bằng vàng đáng giá 100 ngàn đồng của ta rồi!
Gào thét đến khô hơi tắt tiếng, tâm uất hận đến cực độ, tên lái buôn nằm lăn xuống đất ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, như người điên, y xả bỏ quần áo, đồ nữ trang vung vãi, với đầu bù tóc rối, y chạy đuổi theo Đức Bồ Tát. Lúc ấy, Ngài đã qua quá nửa dòng sông, vẫn nghe văng vẳng tiếng gào thét của y: “Hãy trở lại! Hãy trở lại!”. Ngài bảo người lái đò chèo thẳng qua bên kia sông.
Bên bờ sông này, quá thất vọng và tiếc của, quá uất hận, cơn nóng giận cực độ làm cho người lái buôn máu trào ra miệng, lăn ra chết ngay tại chỗ. Trước khi tắt thở, với tâm sân hận y thốt ra lời nguyền độc địa kết oan trái với Đức Bồ Tát: “Ta sẽ kết oan trái với ngươi dù bất cứ ở địa vị nào”. Đó là lần kết oan trái đầu tiên giữa tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta với tiền kiếp của Đức Phật.
Bởi vậy, trong suốt khoảng thời gian tử sinh luân hồi, hễ mỗi khi hai người gặp lại nhau, ở hoàn cảnh nào, địa vị nào, hậu kiếp của người lái buôn tham lam gian ác kia cũng tìm cách giết hại hoặc làm khổ Đức Bồ Tát; dù ở địa vị làm cha, Đức Bồ Tát làm con, thì người cha ấy cũng tìm đủ lý do để giết hại Đức Bồ Tát. Thậm chí cho đến kiếp cuối cùng; hậu kiếp của người lái buôn nữ trang lương thiện trước kia, nay là Thái tử Siddhattha, đã chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, và hậu kiếp của người lái buôn tánh tham lam gian ác trước kia, nay là Hoàng tử Devadatta dòng Sakya (thân quyến của Thái tử Siddhattha) xuất gia trở thành Tỳ-khưu Devadatta, đệ tử của Đức Phật; Tỳ-khưu Devadatta tìm đủ mọi mưu mô thâm độc để giết hại Đức Phật. Nhưng do oai lực của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cho nên không một ai trên thế gian có khả năng giết hại được Ngài.
Do năng lực nghiệp ác cũ sát sanh của Đức Phật ấy còn dư sót chút đỉnh, nên khiến Tỳ-khưu Devadatta leo lên núi Gijjhakūṭa xô tảng đá lăn xuống, trên đường Đức Phật đi kinh hành, tảng đá bị ngăn lại, chỉ vỡ một mảnh đá nhỏ rơi xuống đụng phải đầu ngón chân cái của Đức Phật, làm bầm máu mà thôi. Như vậy, Tỳ-khưu Devadatta phạm phải một trong năm trọng nghiệp vô gián.
Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:
Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai đã giết người em trai cùng cha khác mẹ, vì nguyên nhân tranh đoạt gia tài của cha mẹ để lại, Như Lai đã xô em trai xuống hốc đá, rồi lăn đá đè chết.
Do quả của nghiệp ác cũ ấy, kiếp chót này, Như Lai bị Tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, nhưng tảng đá bị ngăn lại, chỉ vỡ một mảnh đá nhỏ văng ra đụng vào ngón chân cái của Như Lai.
Đức Phật bị mảnh đá đụng ngón chân cái làm bầm máu (Sakalikāvedha)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong một gia đình bình thường; khi còn nhỏ rất tinh nghịch, cậu bé đang chơi giữa đường lớn, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, cậu bé nghĩ: “Samôn trọc đầu đi đâu?”, rồi cầm một mảnh đá ném vào sau lưng Đức Phật Độc Giác, đụng phải gót chân của Ngài làm trầy da, chảy máu.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Đức Phật đang đi kinh hành tại núi Gijjhakūṭa, do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, tuy tảng đá bị cản lại, nhưng một mảnh đá nhỏ vỡ văng ra đụng vào ngón chân cái của Đức Phật, làm cho bầm máu. Đó là do quả của nghiệp ác cũ quá khứ của Ngài.
Đức Phật bị mổ vết thương bằng dao (Satthaccheda)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là Đức vua một nước nhỏ ngoài trung xứ, Đức vua Bồ Tát gần gũi thân cận với các vị quan cận thần ác, nên trở thành Đức vua ác. Một ngày nọ, Đức vua nổi khùng cầm gươm, đi chân trần (không mang dày dép) ra khỏi cung điện chạy vào thành giết chết nhiều người vô tội.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, ngạ quỷ, atula, súc sinh, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi 4 cõi ác giới.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, một mảnh đá nhỏ văng đụng, làm ngón chân cái của Ngài bị bầm máu.
Về sau, thái y Jīvaka dùng con dao bén mổ vết thương lấy máu bầm ra với tâm từ; đó là nghiệp thiện, để chữa trị vết thương ở đầu ngón chân cái của Đức Phật.
Tỳ-khưu Devadatta làm bầm ngón chân Đức Phật, bằng mảnh đá với tâm sân, nên phạm phải trọng ác nghiệp gọi là nghiệp vô gián (anantariyakamma) chắc chắn sẽ cho quả tái sinh trong cõi địa ngục Avecī.
Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:
Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là Đức vua đi chân trần cầm gươm vào thành giết người vô tội. Sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ bị hành hạ thiêu đốt trong địa ngục suốt thời gian lâu dài, cho đến mãn nghiệp ác ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa ngục.
Do quả của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh, kiếp hiện tại, kiếp chót này, Như lai bị mổ lấy máu bầm ở vết thương đầu ngón chân cái của Như Lai; bởi vì nghiệp cũ còn năng lực cho quả.
Đức Phật bị voi Nāḷāgiri rượt đuổi
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người nài voi, đang cỡi voi đi, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi trên đường, Đức Bồ Tát nài voi liền nghĩ rằng: “Samôn đầu trọc này từ đâu đến đây?”. Y phát sinh tâm sân làm cho con voi nổi giận rượt theo Đức Phật Độc Giác.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadattađến gặp Vua Ajātasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nāḷāgiri hung dữ để sát hại Đức Phật; Đức vua chấp thuận.
Tỳ-khưu Devadatta ra lệnh người quản tượng:
– Ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nāḷāgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Samôn Gotama thường hay đi vào thành khất thực, để nó chạy thẳng đến chà chết Samôn Gotama.
Sáng hôm ấy, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng đang ngự vào thành Rājagaha, voi Nāḷāgiri nhìn thấy Đức Phật từ xa ngự đến, liền cuộn vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Đức Phật, ví như một quả núi đang bổ nhào về phía Ngài. Đức Phật liền niệm rải tâm từ đến voi Nāḷāgiri, rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến:
– Này Nāḷāgiri con yêu quý! Người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh, làm cho con say điên cuồng, để con giết hại Như Lai.
Con hãy đến đây với Như Lai, này Nāḷāgiri yêu quý!
Voi Nāḷāgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Đức Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu nhìn thẳng thấy kim thân Đức Phật tỏa ra ánh từ bi, thì lập tức cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh. Do nhờ oai lực tâm từ của Đức Phật, voi Nāḷāgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến, quỳ một cách cung kính dưới đôi bàn chân của Đức Phật.
Đức Phật thuyết pháp tế độ voi Nāḷāgiri, toàn thân tâm của voi Nāḷāgiri phát sinh hỷ lạc chưa từng có. Nếu không phải là loài súc sanh, thì sau khi nghe pháp xong chắc chắn voi Nāḷāgiri đã chứng đắc một trong những Thánh Đạo – Thánh Quả nào đó của các bậc Thánh; nhưng vì voi Nāḷāgiri là loài súc sanh, nên không thể chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả được.
Từ đó về sau, voi Nāḷāgiri trở thành voi hiền lành dễ mến cho đến trọn đời của nó.
Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:
Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là người quản tượng, đang cỡi voi đi trên đường, Đức Bồ Tát quản tượng làm cho con voi nổi giận rượt đuổi Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới thoát ra khỏi 4 đường ác đạo.
Do năng lực của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta sai người quản tượng thả voi Nāḷāgiri chạy nhào đến trước mặt Như Lai đang đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực.
Đức Phật bị bệnh đau đầu (sīsadukkha)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình ngư dân, Đức Bồ Tát cùng đám ngư dân đến chỗ bắt cá, nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều gom thành đống lớn, Đức Bồ Tát cùng tất cả đám ngư dân liền phát sinh tâm hoan hỷ về sự sát sanh ấy.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi ác giới.
Kiếp hiện tại, kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do quả của nghiệp ác cũ hoan hỷ sự sát sanh, trong quá khứ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên đôi khi Đức Phật bị bệnh đau đầu; còn tiền kiếp của đám ngư dân trong quá khứ, nay kiếp hiện tại sinh trong hoàng tộc dòng Sakya đều bị tiêu diệt bởi Đức vua Viḍaḍūbha.
Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:
Tiền kiếp của Như Lai sinh trong xóm ngư dân. Nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều, Như Lai phát sinh tâm hoan hỷ.
Do năng lực của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh đôi khi cho quả bệnh đau đầu phát sinh trong kiếp chót của Như Lai, còn đám ngư dân trong quá khứ, nay là dòng họ Sakya bị Đức vua Viḍaḍūbha tàn sát tất cả.
Đức Phật độ cơm gạo đỏ (yavakhādana)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, kém học thức, là kẻ si mê (andhabāla). Đức Bồ Tát nhìn thấy chư Tỳ-khưu Thanh Văn đệ tử của Đức Phật độ vật thực ngon lành, cơm gạo sāli, nên Đức Bồ Tát đã xúc phạm rằng: “Các Samôn đầu trọc này hãy dùng cơm gạo đỏ, đừng dùng cơm gạo sāli…”.
Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi 4 cõi ác giới.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Ngài cùng chư Tỳ-khưu Tăng du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ.
Một thuở nọ, Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng ngự đến xứ Verañjā. Hay tin Đức Phật đã ngự đến, ông Bàlamôn Verañja đến hầu Đức Phật, để đấu khẩu tranh tài với Đức Phật, nhưng ông Bàlamôn không thể thắng được Đức Phật, liền hồi tâm tỉnh trí phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, lắng nghe chánh pháp liền chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ông thành kính đảnh lễ Đức Phật, thỉnh cầu Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ 3 tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này.
Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh cầu của ông Bàlamôn.
Từ ngày ấy, Ma vương tâm ác làm cho tâm của dân chúng xứ Verañjā mê muội, và đồng thời khi ấy tại xứ Verañjā đang gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông; bởi do thiếu thốn vật thực, cho nên Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng đi khất thực, không có một ai cúng dường để bát.
Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ-khưu đi khất thực nhưng không được gì, họ phát sinh thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng dường phần lúa đem theo làm vật thực cho ngựa, giã ra thành gạo đỏ, nấu cơm, chư thiên bỏ thêm vào hương vị trời, rồi cúng dường để bát đến Đức Phật cùng nhóm 500 chư Tỳ-khưu Tăng đệ tử của Ngài.
Như vậy, Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng độ cơm gạo đỏ suốt 3 tháng trong mùa an cư nhập hạ năm ấy, cho đến ngày làm đại lễ Pavāraṇā (lễ yêu cầu thỉnh mời chỉ lỗi của mình) trước ngày mãn hạ, Ma vương tâm ác không còn làm cho dân chúng xứ Verañjā mê muội nữa. Thật vậy, ông Bàlamôn Verañja nhớ lại trước đây 3 tháng, có thỉnh mời Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng đê tử của Ngài an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Verañjānày, mà ông đã quên hẳn, nên suốt thời gian nhập hạ ông không cúng dường bốn thứ vật dụng đến Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng.
Ông Bàlamôn Verañja đến hầu Đức Phật, kính thỉnh Ngài cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng ngày hôm sau, ông xin làm phước đại thí cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng có Đức Phật chủ trì, đồng thời ông kính xin Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng tha thứ tội lỗi mê muội quên hẳn bổn phận của ông.
Thật ra, đó là nghiệp ác cũ mà Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama. Nghiệp ác cũ ấy cho quả không những một mình Đức Phật phải chịu quả khổ, mà nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng đệ tử của Ngài cũng bị ảnh hưởng quả của nghiệp ác ấy.
Đức Phật bị bệnh đau lưng (piṭṭhidukkha)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, Đức Bồ Tát có dáng vóc lùn, nhưng có sức mạnh phi thường.
Thời ấy, có một võ sĩ đô vật thân hình vạm vỡ, qua những trận đọ sức với các đối thủ từ khắp tỉnh thành cho đến thủ đô, y đều toàn thắng, y tự cho mình là người vô địch. Một hôm, võ sĩ này đến quê hương của Đức Bồ Tát, cũng như các nơi khác, không có một đối thủ nào có thể đọ sức nổi với y; cho nên, y huyênh hoang tự đắc cho mình là người vô địch, rồi hãnh diện lên đường đi đến nơi khác.
Khi ấy, Đức Bồ Tát nghĩ rằng:
“Người võ sĩ này đã thắng tất cả các võ sĩ đô vật trên quê hương của ta, rồi ra đi với vẻ tự cao ngã mạn như vậy”.
Đức Bồ Tát liền đến gặp y vỗ tay bảo rằng:
– Ngươi hãy đến đây, đọ sức với ta rồi đi!
Võ sĩ đô vật cười khanh khách và nghĩ rằng:
– Các địch thủ to lớn, ta còn thắng một cách dễ dàng, huống gì dáng người thấp lùn này, ta chỉ cần dùng một tay là đủ.
Y vỗ tay đi đến gặp Đức Bồ Tát. Hai người bắt tay lẫn nhau trước khi đọ sức.
Đức Bồ Tát vồ đến ôm gọn thân hình vạm vỡ của y, nhấc hỏng chân lên, đưa lên hư không, quay vòng tròn, rồi dộng vai mạnh xuống mặt đất làm y sụn cột xương sống, rồi để y nằm dài trên mặt đất, không còn cựa quậy được nữa.
Dân chúng trong xứ thấy vậy vỗ tay tán dương khen thưởng Đức Bồ Tát đã thắng được một võ sĩ đô vật lừng danh, rồi họ tặng cho Đức Bồ Tát những phần thưởng vô cùng quý giá.
Đức Bồ Tát chữa trị lại phần xương vai, xương cột sống cho võ sĩ, rồi đỡ y đứng dậy và dạy bảo y, từ nay về sau không nên đọ sức so tài với ai nữa.
Mỗi khi Đức Bồ Tát được tái sinh làm người, nghiệp ác làm khổ võ sĩ đô vật ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức Bồ Tát thường bị đau lưng, đau mình nhức mỏi.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không còn khổ tâm do phiền não nữa; nhưng Đức Phật vẫn còn khổ thân tứ đại, thường mắc bệnh đau lưng… Cho nên, đôi khi Đức Phật đang thuyết pháp, bệnh đau lưng phát sinh, Ngài truyền dạy Đại đức Sāriputta hoặc Đại đức Mahāmoggallāna thay thế Ngài tiếp tục thuyết pháp; còn Ngài cho đệ tử trải y nằm nghỉ, để giảm bớt cơn đau lưng. Đó là quả của nghiệp cũ.
Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:
Trận đô vật, Như Lai đã làm khổ võ sĩ đô vật trong thời quá khứ; nay kiếp hiện tại, do quả của nghiệp cũ ấy, nên bệnh đau lưng phát sinh đến cho Như Lai.
Đức Phật bị bệnh đại tiện ra máu (atisāra: bệnh kiết lỵ)
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thầy thuốc. Đức Bồ Tát trưởng thành sinh sống bằng nghề làm thầy hốt thuốc chữa bệnh cho mọi người. Khi Đức Bồ Tát chữa bệnh cho con trai một phú hộ; người con trai phú hộ trả tiền công hốt thuốc không xứng đáng. Vì không hài lòng nên Đức Bồ Tát đã hốt thuốc xổ cho con trai phú hộ uống.
Khi Đức Bồ Tát được tái sinh làm người, do nghiệp ác cho uống thuốc xổ ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức Bồ Tát bị bệnh kiết lỵ, đi đại tiện ra máu.
Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào năm 35 tuổi. Từ đó về sau, suốt 45 năm thuyết pháp tế độ cho chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Lúc Đức Phật tròn 80 tuổi, đúng vào ngày rằm tháng tư âm lịch, ngày cuối cùng Ngài tịch diệt Niết Bàn. Sau khi Đức Phật độ món ăn đặc biệt bổ dưỡng sūkuramaddava của ông Cunda kammāraputta, và có thêm phần hương vị của chư thiên ở các cõi trời bỏ vào món ăn ấy, để bồi bổ tăng thêm sức mạnh trong cơ thể của Ngài. Trên đường đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng trên đường ngự đến khu rừng Kusinārā, Ngài bị lâm bệnh kiết lỵ đi đại tiện ra máu, làm cho cơ thể mệt nhoài, lại thêm khát nước, Ngài phải ngừng lại nằm nghỉ ngơi một lúc, rồi mới tiếp tục ngự đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch).
Đức Phật là bậc cao thượng nhất trong tam giới, thế mà vẫn không sao tránh khỏi nghiệp ác cũ.
Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:
Tiền kiếp Như Lai làm nghề thầy thuốc, làm vị thầy chữa bệnh cho con phú hộ; do không hài lòng, vị thầy đã hốt thuốc xổ cho con trai phú hộ uống. Do quả của nghiệp ác ấy cho quả, nên bệnh đại tiện ra máu phát sinh đến Như Lai.
Đức Phật khát nước
Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người chăn bò, dẫn đàn bò ra đồng ăn cỏ, Đức Bồ Tát nhìn thấy con bò mẹ đang uống nước đục, nên ngăn cấm không cho nó uống theo ý muốn.
Do quả của nghiệp ác ấy, Đức Bồ Tát Siddhattha kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trên đường từ thành phố Pāvā đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật bị lâm bệnh kiết lỵ đi đại tiện ra máu, mệt nhoài và khát nước. Ngài truyền dạy Đại đức Ānanda đi lấy nước. Ngài Đại đức Ānanda đi đến con sông còn ít nước, vả lại vừa có 500 chiếc xe bò băng qua sông làm nước sông đục ngầu, nên Ngài Đại đức Ānanda không muốn lấy nước ấy. Về phần Đức Phật vì khát nước quá không chịu đựng nổi, nên Ngài truyền dạy Đại đức Ānanda phải lấy nước đem về độ cho qua cơn khát. Ngài Đại đức Ānanda bước xuống sông, thật phi thường thay!, dòng nước sông đang đục ngầu liền trở nên trong xanh sạch sẽ. Ngài lấy nước ấy đem về dâng cho Đức Phật độ.
Đó là do quả của nghiệp ác cũ ngăn cấm con bò mẹ đang uống nước, trong tiền kiếp của Ngài.
Đức Phật đã thuyết những nghiệp ác cũ đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ của Ngài đến chư Tỳ-khưu Tăng tại ven rừng gần hồ Anotatta.
Tất cả mọi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng đều tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của chính mình. Trong hiện tại, con người có quyền chọn lựa nghiệp nào, rồi có quyền tạo nên nghiệp thiện hoặc nghiệp ác ấy; song quả của nghiệp thiện hoặc quả của nghiệp ác phát sinh do hội đủ nhân duyên, hoàn toàn không do mình chọn lựa. Hễ nghiệp thiện là cho quả tốt, quả an lạc…; ngược lại, hễ nghiệp ác là cho quả khổ…
Như vậy, muốn quả tốt, quả an lạc, thì nên tạo mọi nghiệp thiện; và không muốn quả xấu, quả khổ não, thì không nên tạo mọi nghiệp ác.
Nếu chúng sinh nào đã tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác nào rồi, đến khi nghiệp nào có cơ hội cho quả của nó, thì chúng sinh ấy thọ nhận quả của nghiệp ấy, như là người thừa kế quả của nghiệp mà chính mình đã tạo.
Đức Phật dạy về nghiệp rằng:
“Kammassako mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇam vā pāpakaṃ vā, tassa dāyado bhavissāmi” (Anguttaranikaya, trong Kinh Abhinhasutta)
“Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ta ra, nghiệp là bà con thân quyến, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào: là thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp, ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp ấy”.
Mỗi nghiệp thiện, mỗi nghiệp ác, nếu có đầy đủ nhân duyên và cơ hội, thì nó có thể cho quả ngay trong kiếp hiện tại, cho quả tái sinh trong kiếp sau, và những kiếp kế tiếp cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn, đối với bậc Thánh Arahán.
Vậy chúng ta nên có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình; còn muốn biết rõ nghiệp quá khứ nào, cho quả như thế nào, trong kiếp hiện tại, không phải là điều dễ biết, đối với tất cả mọi chúng sinh. Duy nhất chỉ có Đức Sabbaññū (Đức Phật Toàn Giác) mới thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp trải qua vô số tiền kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, kiếp vị lai của Ngài và của tất cả mọi chúng sinh. Và một số chư Thánh Arahán cũng có khả năng biết được nghiệp thiện, nghiệp ác của mình trong những tiền kiếp có giới hạn. Quý Ngài thuật lại được ghi vào trong bộ Apādāna.
Ngoài Đức Phật và một số chư bậc Thánh Arahán ra, còn lại tất cả chúng sinh khác, không một ai có khả năng biết rõ nghiệp của mình đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ.
Thật vậy, bởi vì nghiệp và quả của nghiệp là một trong bốn điều bất khả tư nghì(acinteyya); không nên tư duy suy nghĩ về nghiệp và quả của nghiệp; mà chỉ nên có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp mà thôi. Nếu người nào tư duy suy nghĩ về nghiệp và quả của nghiệp thì người ấy có thể bị loạn trí.
Đức Phật Toàn Giác biết rõ nghiệp ác cũ trong vô số tiền kiếp của Ngài không sao kể xiết, song những nghiệp ác cũ nào mà Ngài nêu ra, là vì những nghiệp ác cũ ấy có liên quan cho quả khổ trong kiếp chót của Ngài, trước khi tịch diệt Niết Bàn.
Những người nào có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình. Nếu những người ấy, khi đang hưởng quả của nghiệp thiện được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng v.v… họ cảm thấy hoan hỷ, đời sống được hạnh phúc an lạc; thì họ càng có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của họ; cho nên họ tìm mọi cơ hội tốt để tạo nhiều nghiệp thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền,… Nhờ những nghiệp thiện này nâng đỡ kiếp sống còn của họ được cao thượng, nhất là tạo duyên lành, bồi bổ những pháp hạnh ba-la-mật để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Nếu những người ấy, khi đang chịu đựng quả khổ của nghiệp ác,… thì họ không hề oán trách một ai cả; vì họ tin chắc chắn rằng đó chỉ là quả của nghiệp ác mà chính họ đã tạo trong thời quá khứ; nay đến thời kỳ cho quả, họ cam chịu quả khổ ấy. Họ phát sanh thiện tâm ghê sợ mọi nghiệp ác, tội lỗi, họ cố gắng tránh xa mọi nghiệp ác đầy tội lỗi, để cho thời vị lai họ không phải chịu cảnh khổ não như thế này nữa.
Như vậy, những người có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, dù quả của nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát sinh, họ vẫn có thể phát sinh thiện tâm trong sáng, làm chủ được; không bị quả của nghiệp chi phối, không để tâm tham hoặc tâm sân phát sinh.
Nghiệp và quả của nghiệp rất công minh không hề thiên vị một ai cả, dù là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh cũng không thoát khỏi quả khổ của nghiệp ác. Huống gì mỗi người trong chúng ta; khi chúng ta hoan hỷ thọ nhận quả của nghiệp thiện, thì chúng ta cũng nên nhẫn nại thọ nhận quả của nghiệp ác với thiện tâm trong sáng.
Người có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, tin tưởng rằng: “Nghiệp nào cho quả cũng có thời hạn mãn nghiệp ấy”.
Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp hoàn toàn không phải là định mệnh, mà nghiệp và quả của nghiệp hoàn toàn tùy thuộc vào định luật nhân – quả mà thôi.
Đức Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp bằng câu kệ rằng:
“Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakāri ca pāpakaṃ” (bộ Samyuttanikaya, phần Sagathavagga) .
“Người nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặt quả như thế ấy.
Người hành thiện, thì được quả thiện,
Người hành ác, thì chịu quả ác”.
Nghiệp có cơ hội sẽ cho quả trong kiếp hiện tại, kiếp sau kế tiếp và kiếp thứ ba cho đến kiếp chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trước khi tịch diệt Niết Bàn.