3-   Ác-nghiệp tà-kiến

Ý ác-nghiệp tà-kiến là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Tà-kiến  đó  là  tâm-sở  tà-kiến  (diṭṭhicetasika)  đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Người có ý ác-nghiệp tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ chủ-thể bên trong của mình đến các đối-tượng bên ngoài.

Tà-kiến có 2 loại là

1-  Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ.

2-  Niyatamicchādiṭṭhi: Tà-kiến cố-định chấp-thủ.

Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:

1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp thuộc về sắc-pháp.

2 – Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm

3-  Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm .

4- Hành-uẩn chấp-thủ gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.

5-  Thức-uẩn chấp-thủ gồm có 81 tam-giới-tâm.

(Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-uẩn).

Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhikathā trình bày tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ có 20 loại.

1- Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn

Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta (ngã).

1- Tà-kiến chấp ngã trong sắc-uẩn chấp-thủ có 4 loại:

–  Sắc-uẩn là ta.   – Ta có sắc-uẩn.

–  Sắc-uẩn trong ta. – Ta trong sắc-uẩn.

2-   Tà-kiến chấp ngã trong thọ-uẩn chấp-thủ có 4 loại:

–  Thọ-uẩn là ta.   – Ta có thọ-uẩn.

–  Thọ-uẩn trong ta. – Ta trong thọ-uẩn.

3-   Tà-kiến chấp ngã trong tưởng-uẩn chấp-thủ có 4 loại:

–  Tưởng-uẩn là ta.   – Ta có tưởng-uẩn.

–  Tưởng-uẩn trong ta. – Ta trong tưởng-uẩn.

4-   Tà-kiến chấp ngã trong hành-uẩn chấp-thủ có 4 loại:

–  Hành-uẩn là ta.   – Ta có hành-uẩn.

–  Hành-uẩn trong ta. – Ta trong hành-uẩn.

5-   Tà-kiến chấp ngã trong thức-uẩn chấp-thủ có 4 loại:

–  Thức-uẩn là ta.   – Ta có thức-uẩn.

–  Thức-uẩn trong ta. – Ta trong thức-uẩn.

Đó là 20 loại tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ đối với tất cả các hàng chúng-sinh thuộc về hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) trong tam-giới.

–  Tất cả chúng-sinh có ngũ-uẩn trong 11 cõi dục-giới.

–    Tất cả phạm-thiên có ngũ-uẩn trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên).

–    Tất cả phạm-thiên có nhất-uẩn là sắc-uẩn trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên.

–    Tất cả phạm-thiên có tứ-uẩn là thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta này có ảnh hưởng thế nào đối với mọi chúng-sinh?

Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.

Đối với tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm nhân đều có loại sakkāyadiṭṭhi: tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta này. Sakkāyadiṭṭhi này không có ảnh hưởng, không có cản trở nào đối với những người tạo mọi phước-thiện như phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ- giới, phước-thiện hành-thiền, v.v…, cũng không cản trở đối với các hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định, không cản trở sự chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, cũng không cản trở chứng đắc 5 phép thần-thông thế-gian (lokiya abhiññā).

Cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta không cản trở dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới; không cản trở sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên; không cản trở vô-sắc-giới thiện- nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên.

Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn cản trở pháp-hành thiền-tuệ

Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta, ngã này chỉ có cản trở đối với các hành- giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi, bởi vì đối- tượng thiền-tuệ có ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp- thủ, thức-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp rõ ràng đều là pháp- vô-ngã, không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh,… nhưng tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, chúng-sinh, v.v… cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ- uẩn chấp-thủ làm cản trở đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

* Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ

1-   Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?

Sắc-uẩn chấp-thủ đó là thân gồm có 28 sắc-pháp:

– Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nam gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nữ-tính).

– Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nữ gồm có 27 sắc-pháp (trừ sắc-nam-tính).

Ví dụ: Khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, …Đúng theo sự-thật của chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) thì chỉ có thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm mà thôi.

Thân thuộc về sắc-uẩn (sắc-pháp) nên gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm mà thôi.

–    Nếu khi thân đi hoặc sắc đi thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.

Ta đi vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có sắc đi mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta đi là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã (ta) vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi thuộc về sắc-uẩn đó là sắc-pháp cho là ta đi.

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà- kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài- nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 danh-uẩn) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

Cũng tương tự như vậy,

–  Khi thân đứng hoặc sắc đứng, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đứng cho là ta đứng nữa.

–   Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc ngồi cho là ta ngồi nữa.

–   Khi thân nằm hoặc sắc nằm, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc nằm cho là ta nằm nữa, …

2-   Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?

Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở (vedanācetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ trong đối-tượng, có 3 loại thọ:

–    Dukkhavedanā: thọ khổ là cảm thọ khổ khó chịu trong đối-tượng xấu.

–   Sukhavedanā: thọ lạc là cảm thọ lạc dễ chịu trong đối-tượng tốt.

–   Adukkhamasukhavedanā: thọ không khổ không lạc là cảm thọ không khổ không lạc trong đối-tượng không xấu không tốt.

Ba loại thọ này là thọ-uẩn thuộc về danh-pháp.

–    Nếu khi cảm thọ khổ (dukkhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ khổ cho là ta khổ.

–  Nếu khi cảm thọ lạc (sukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ lạc cho là ta an-lạc.

–    Nếu khi cảm thọ không khổ không lạc (adukkha- masukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ không khổ không lạc cho là ta không khổ không lạc.

Ta khổ, ta an-lạc,… vốn không có thật, sự thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có thọ-uẩn cảm thọ mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta khổ, ta an- lạc,… là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta khổ, ta an-lạc,…

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta khổ, ta an-lạc. …

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân  có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ

 

chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não  là  tà-kiến  (diṭṭhi)  trong  4  tham-tâm  hợp  với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

3-   Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp- thủ cho là ta như thế nào?

Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở (saññā- cetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.

Tưởng tâm-sở có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối- tượng đó là:

–  Rūpasaññā: sắc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng sắc.

Saddasaññā: tưởng thanh là tưởng nhớ đối-tượng âm-thanh.

Gandhasaññā: hương tưởng là tưởng nhớ đối-tượng hương.

Rasasaññā: vị tưởng là tưởng nhớ đối-tượng vị.

Phoṭṭhabbasaññā: xúc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng xúc.

Dhammasaññā: pháp tưởng là tưởng nhớ đối-tượng các pháp.

Sáu loại tưởng này là tưởng-uẩn thuộc về danh-pháp.

– Nếu khi tưởng nhớ đến đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc tưởng cho là ta tưởng sắc .

Ta tưởng sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có tưởng- uẩn mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tưởng là vì tà- kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta tưởng.

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tưởng.

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não  là  tà-kiến  (diṭṭhi)  trong  4  tham-tâm  hợp  với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

4-  Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?

Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (cetasika) (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.

Trong 50 tâm-sở có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) dẫn đầu tạo thiện-nghiệp hoặc tạo ác-nghiệp.

–   Nếu khi tạo thiện-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp.

–   Nếu khi tạo ác-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo ác-nghiệp.

Ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,…vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma) thì chỉ có hành-uẩn tạo thiện-nghiệp, tạo ác- nghiệp mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tạo thiện- nghiệp, ta tạo ác-nghiệp… là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành- uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác- nghiệp, …

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp, mọi sắc-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,…

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân  có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não  là  tà-kiến  (diṭṭhi)  trong  4  tham-tâm  hợp  với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

5-  Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ cho là ta như thế nào?

Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm chia ra 6 loại thức tâm:

1-  Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm.

2-  Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm.

3-  Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm có 2 tâm.

4-  Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm có 2 tâm.

5-  Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm có 2 tâm.

6-  Manoviññāṇa: ý-thức-tâm có 71 tâm.

Sáu loại tâm này gọi là thức-uẩn thuộc về danh-pháp.

–   Nếu khi nhãn-thức-tâm có phận sự thấy đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm cho là ta thấy sắc.

Ta thấy sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có nhãn- thức-tâm thấy sắc mà thôi, nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta thấy sắc là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn cho là ta thấy sắc.

 

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta thấy sắc.

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân  có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não  là  tà-kiến  (diṭṭhi)  trong  4  tham-tâm  hợp  với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi, không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho là ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

Cũng tương tự như vậy,

–  Nếu khi nhĩ-thức-tâm nghe âm-thanh, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhĩ- thức-tâm cho là ta nghe âm-thanh nữa.

–  Nếu khi tỷ-thức-tâm ngửi mùi hương, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tỷ- thức-tâm cho là ta ngửi mùi hương nữa.

–   Nếu khi thiệt-thức-tâm nếm vị, thì bậc Thánh Nhập- lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thiệt-thức- tâm cho là ta nếm vị nữa.

–  Nếu khi thân-thức-tâm xúc-giác cứng mềm,… thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thân-thức-tâm cho là ta xúc-giác cứng mềm nữa.

–   Nếu khi ý-thức-tâm biết các pháp, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi ý- thức-tâm cho là ta biết các pháp nữa.

2-   Niyatamicchādiṭṭhi:   tà-kiến   cố-định   là   tà-kiến chấp-thủ cố-định, không thay đổi.

Tà-kiến cố-định có 3 loại:

a- Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến.

b- Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến.

c- Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến.

a-   Vô-quả tà-kiến như thế nào?

Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp”.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc đã tạo thiện-nghiệp rồi đều không có quả khổ của ác- nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp.

Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau”.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn- kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(1) vị Đạo-sư ngoại-đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng:“không có quả của nghiệp” như sau:

1-   Natthi dinnaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện bố-thí không có quả tốt, an-lạc.

2-   Natthi  yiṭṭhaṃ:  tà-kiến  thấy  sai  rằng:  Phước-thiện cúng dường không có quả tốt, an-lạc.

3-   Natthi hutaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường, đón rước cũng không có quả tốt, an-lạc.

4-    Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác- nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.

5-  Natthi ayaṃ loko: tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái-sinh đến cõi giới này.

6-   Natthi paro loko: tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới khác nghĩa là chúng-sinh chết rồi là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi giới khác.

7-  Natthi mātā: tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với mẹ của mình, không có quả tốt, quả xấu.

8-   Natthi pitā: tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với cha của mình, không có quả tốt, quả xấu.

9-     Natthi sattā opapātikā: tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa-sinh to lớn ngay tức thì, như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc- giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.

10-  Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sam-māpaṭipannā  ye  imañca  lokaṃ  parañca  lokaṃ  abhiññā sacchikatvā pavedenti: tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp- hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc- giới, các bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần- thông; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi giới này, các cõi giới khác.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của ác-nghiệp, quả của thiện-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là ác-nghiệp, thiện-nghiệp.

b-   Vô-nhân tà-kiến như thế nào?

Ahetukadiṭṭhi:   vô-nhân   tà-kiến   cố-định   là   tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp”.

Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác- nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp”.

Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện- nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời kỳ được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(1) vị Đạo-sư ngoại  đạo  Makkhaligosāla  có  tà  thuyết  Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp” như sau:

–   Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.

–   Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh. Tất cả chúng- sinh được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.

–   Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.

–   Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy.

Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả an-lạc của thiện-nghiệp, quả khổ của ác-nghiệp.

c-  Vô-hành tà-kiến như thế nào?

Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện”.

Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện”.

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị Đạo-sư ngoại  đạo  Puraṇakassapa  có  tà  thuyết  Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:

*   Tự mình hành ác, sai khiến hành ác đều không có hành ác như:

–   Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.

–    Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp, v.v…

–    Tự mình bố-thí, khuyên dạy người khác bố-thí đều không có hành thiện bố-thí.

–    Tự mình cúng-dường, khuyên dạy người khác cúng- dường đều không có hành thiện cúng-dường, v.v…

Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, quả của ác-nghiệp.

Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.

Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.

* Tính chất của 3 ác-nghiệp tà-kiến cố-định

Trong tất cả mọi loại ác-nghiệp, chỉ có 3 loại ác- nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này là trọng-tội cực kỳ nặng mà thôi, không có ác-nghiệp nào tội nặng hơn 3 loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này.

Dù 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, cũng không nặng bằng 3 loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này, bởi vì người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này hoàn toàn phủ nhận nghiệp và quả của nghiệp, hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp.

Cho nên, họ không chịu lắng nghe lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí, không thực-hành theo lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí.

Tuy họ thường hành ác-nghiệp, nhưng họ không tin ác-nghiệp sẽ cho quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai, nên họ không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết ăn năn sám hối tội-lỗi của mình, nên không từ bỏ ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố- định này.

Cho nên, chính do tâm tà-kiến chấp-thủ cố-định này, nên họ càng ngày càng lún sâu vào tội-lỗi.

Người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này, tuy họ không tin có kiếp sau, nhưng sau khi họ chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp  kế-tiếp  (paṭisandhikāla)  trong  cõi  đại-địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có khả năng ngăn cản được, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định ấy suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất, không có thời hạn.

 

Người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định chấp-thủ sống trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định là người hoàn toàn không tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, nghĩa là không tin rằng:

“Ác-nghiệp cho quả khổ, còn thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.”

Đối với người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố- định thì sự khổ hoặc sự an-lạc trong cuộc sống chỉ là điều rủi, điều may mà thôi. Cho nên, trong kiếp sống hiện-tại, nếu khi có cơ hội thì người ấy có thể tạo mọi ác-nghiệp, bởi vì họ hoàn toàn không tin rằng: “làm ác  là có tội, làm thiện là có phước, nghiệp là của riêng mình.”

Người ấy không dám làm ác, không phải là họ sợ tội- lỗi, mà họ sợ vi phạm pháp luật của nhà nước, thì họ bị bắt phạt, bắt giam trong tù, hoặc e ngại người khác chê trách mà lánh xa họ.

Nếu nghề nào không phạm pháp, được nhà nước cho phép ví như làm nghề sát-sinh giết mổ gia súc, gia cầm để bán thịt thì người ấy hăng hái giết mổ các loài gia  súc, các loài gia cầm bán thịt, cốt để thu được nhiều lợi, rồi họ nộp thuế cho nhà nước, sống hợp pháp.

Nếu xét về nghiệp thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát- sinh, thuộc về tà-nghiệp, sống tà-mạng kiếp hiện-tại.

Nếu người ấy là người giàu có thì tham gia vào những việc từ thiện, đem của cải, tài sản của mình giúp đỡ cứu trợ những người gặp cảnh thiên tai bão lụt, … những người gặp hoạn nạn, những người tàn tật, nghèo khổ, … không phải có tác-ý tạo phước-thiện bố-thí (vì họ không tin phước), mà có lòng thương người, muốn giúp đỡ cứu trợ người trong cảnh khổ, để được danh thơm tiếng tốt được mọi người biết đến họ trong kiếp hiện-tại này.

 

Tà-kiến (micchādiṭṭhi)

Tà-kiến phát sinh do nhân nào?

Trong Chi-bộ-kinh, phần pháp 2 chi, Đức-Phật thuyết dạy tà-kiến (micchādiṭṭhi) phát sinh do 2 nhân-duyên:

“Dveme   Bhikkhave,   paccayā   micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve?

Parato ca ghoso, ayoniso ca manasikāro.

Ime   kho   bhikkhave,   dve   paccayā   micchādiṭṭhiyā uppādāya”.

–  Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên làm phát sinh tà- kiến. Hai nhân-duyên ấy là gì?

1-     Parato ca ghoso: Lắng nghe tà-pháp từ hạng người có tà-kiến.

2-   Ayoniso ca manasikāro: Biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của các pháp hữu vi.

Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên ấy làm phát sinh tà-kiến.

Giải Thích

Ayoniso ca manasikāro: biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh- pháp tam-giới như sau:

*   Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là thường (nicca).

*   Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là lạc (sukha).

*    Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là ngã (attā).

Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái bất-tịnh (asubha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là tịnh (subha).

Ayonisomanasikāra: biết trong tâm với si-tâm biết đảo ngược 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh làm nhân-duyên phát sinh micchādiṭṭhi : tà-kiến, cũng làm nhân-duyên phát sinh vipallāsa: pháp-đảo-điên.

Vipallāsa: pháp-đảo-điên có 3 loại:

1- Diṭṭhivipallāsa:  tà-kiến  đảo-điên  thấy  đảo  ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

2- Cittavipallāsa: tâm đảo-điên biết đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

3-   Saññāvipallāsa: tưởng đảo-điên tưởng đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

Như vậy, pháp-đảo-điên có 3 loại, mà mỗi loại có 4 pháp, cho nên, gồm có 12 pháp-đảo-điên làm nhân- duyên phát sinh tà-kiến.

 

PHẦN II – Ác-nghiệp thù hận người khác
PHẦN II – PHƯỚC-THIỆN (PUÑÑAKRIYĀVATTHU) VÀ QUẢ CỦA 10 PHƯỚC-THIỆN

Nền Tảng Phật Giáo

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nền Tảng Phật Giáo has 640 posts and counting. See all posts by Nền Tảng Phật Giáo

Nền Tảng Phật Giáo

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *