NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO (MŪLABUDDHASĀ SANA)
QUYỂN III
PHÁP HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
(Tái bản lần thứ ba có sửa và bổ sung)
TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP (DHAMMARAKKHITA BHIKKHU)
(AGGAMAHĀPAṆḌITA)
Pháp-Hành-Giới (Sīlācāra)
Các hàng thanh-văn biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợtội-lỗi thì giữ gìn giới của mình được trong sạch trọn vẹn, giữ gìn giới là giữ gìn phẩm-hạnh cao quý của hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng.
– Đối với hàng tại gia là cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) cần phải giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, đó là giới của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla).
– Đối với hàng xuất-gia là tỳ-khưu, sa-di, tu-nữ cần phải giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, đó là giới của bậc xuất-gia tu-sĩ (Pabbajitasīla).
Pháp-Hành Giới là đề tài rộng lớn, bần sư đã cố gắng sưu tầm gom nhặt từ các nguồn tài liệu đem trình bày trong quyển Pháp-Hành Giới này, giúp cho độc giả hiểu biết một phần cơ bản trong Phật-giáo.
Tuy bần sư đã cố gắng hết sức mình tái bản quyển Pháp- Hành Giới lần này cho được hoàn thiện, nhưng vì khả năng có hạn, nên cũng chỉ thực hiện được bấy nhiêu thôi! Bần sư tin chắc rằng:
“Soạn phẩm này vẫn còn nhiều chỗ sơ suất, thậm chí còn có chỗ sai nữa, ngoài khả năng hiểu biết của bần sư. Kính mong các bậc thiện-trí có tâm từ chỉ giáo, góp ý chân tình.
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung màmỗi người trong chúng ta ai cũng có bổn phận đóng góp, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hoá, sự an-lạc cho phần đông.”
Bần sư chân thành biết ơn quý vị.
PL. 2560 / DL. 2017
Rừng Núi Viên Không Xã Tóc Tiên,
Huyện Tân Thành Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Tỳ-Khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
Quyển III: Pháp-Hành Giới (Sīlācāra) có 1 chương là chương V.
Chương V trình bày pháp-hành giới có 2 phần:
– Giới của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla).
– Giới của bậc xuất-gia tu-sĩ (Pabbajitasīla).
* Giới của người tại gia cư-sĩ (Gahaṭṭhasīla) gồm có những giới nào?
Theo truyền thống Phật-giáo, đối với các hàng tại gia cư-sĩ là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, sau khi thọ phépquy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ-trì giới.
Giới của các hàng tại gia có nhiều loại giới như:
– Ngũ-giới là thường-giới của mọi người tại gia.
– Ngũ-giới hành phạm-hạnh là giới của bậc Thánh Bất-lai tại gia.
– Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là giới của mọi người tại gia và bậc xuất-gia.
Ba loại giới này là thường-giới (niccasīla) của người tại gia mà mọi người cần phải giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn suốt ngày đêm, trọn đời.
– Bát-giới uposathasīla và cửu-giới uposathasīla là giới hành vào những ngày quy định trong mỗi tháng có 4 ngày, hoặc 6 ngày, hoặc 8 ngày giới, …
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào nếu có khả năng thì nên thọ-trì bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới upo-sathasīla vào những ngày giới ấy, nếu không có khả năng thì không bắt buộc phải thọ-trì giới ấy.
– Thập-giới của người tại gia cũng là giới của người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, chưa có cơ hội xuất gia lâu dài, mà chỉ có rảnh rỗi thời gian ngắn, người ấy đến chùa xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì thập-giới của người tại gia trong khoảng thời gian ngắn tuỳ theo hạn định của mình.
* Giới của bậc xuất-gia tu-sĩ (Pabbajitasīla)
Bậc xuất-gia tu-sĩ là vị sa-di, vị tỳ-khưu, vị tu-nữ.
– Vị sa-di gồm có 10 sa-di-giới, 10 giới hoại phẩm- hạnh của sa-di, 10 giới hành phạt của sa-di, 75 điều- giới hành của sa-di, 14 pháp-hành của sa-di.
* Giới của sa-di không phải thọ-trì như giới của người tại gia. Trong buổi lễ xuất-gia trở thành vị sa-di, vị giới-tử xuất gia sa-di khi đọc lặp theo Ngài Trưởng- lão thầy tế độ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi theo ṭhāna, karaṇa, payatana và 10 byañjanabuddhi đúng theo văn phạm Pāḷi đến lần thứ ba là
“Tatiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”chấm dứt, thì trở thành vị sa-di, đồng thời 10 sa-di-giới, 10 giới hoại phẩm-hạnh của sa-di, 10 giới hành phạt của sa-di, 75 điều-giới hành của sa-di, 14 pháp-hành của sa-di thành tựu cùng một lúc không trước không sau.
– Vị tỳ-khưu có 227 điều-giới bổn của tỳ-khưu, 14 pháp-hành của tỳ-khưu. Giới của tỳ-khưu tính rộng theo Tạng Luật Pāḷi gồm có 91.805.036.000 điều-giới.
* Giới của tỳ-khưu không phải thọ-trì. Trong buổi lễ xuất-gia trở thành vị tỳ-khưu tại sīmā, Ngài Trưởng-lão luật sư tụng Ñatticatutthakammavācā xong, giới-tử trở thành tỳ-khưu, đồng thời 227 điều-giới bổn của tỳ-khưu, 14 pháp-hành của tỳ-khưu, thậm chí 91.805.036.000 điều-giới của tỳ-khưu thành-tựu cùng một lúc không trước không sau.
– Vị tu-nữ cũng là người xuất-gia thọ-trì bát-giới uposathasīla hoặc thập-giới của người xuất-gia suốt cuộc đời tu-nữ, thường trú trong chùa.
Pháp-hành giới như thế nào?
Hành-giả biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa thân hành 3 điều ác và tránh xa khẩu nói 4 điều ác, hoặc tránh xa 3 loại thân ác-nghiệp và 4 loại khẩu ác-nghiệp, giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, để thân và khẩu cho được trong sạch thanh-tịnh, làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát triển nhất là pháp- hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
Giới trong sạch nghĩa là tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn giới của mình không để bị ô nhiễm bởi phiền-não.
Và trọn vẹn nghĩa là giữ gìn các điều-giới đầy đủ hoàn toàn.
* Người giữ gìn giới trong sạch trọn vẹn là người thiện do tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa 3 thân ác-nghiệp, 4 khẩu ác-nghiệp, thành tựu 3 thân thiện-nghiệp và 4 khẩu thiện-nghiệp của người ấy.
* Người phạm điều-giới là người ác do tác-ý trong ác-tâm tạo 3 thân ác-nghiệp và tạo 4 khẩu ác-nghiệp của người ấy.
Đức-Phật dạy rằng:
* Quả Khổ Của Người Phạm Giới (Dussīla ādīnava)(2)
Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi làng Pāṭaligāma, dân làng Pāṭali đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy dân làng Pāṭali rằng:
– Này các người tại gia! Có 5 quả xấu, quả khổ của người phạm giới, người không có giới. 5 quả xấu, quả khổ ấy là:
– Này các người tại gia! Trong đời này, người phạm giới, người không có giới làm tiêu hao của cải tài sản lớn lao, do nhân dể duôi (thất niệm).
Đó là quả xấu thứ nhất của người phạm giới, người không có giới.
– Này các người tại gia! Người phạm giới, người không có giới có tiếng xấu bị lan truyền khắp mọi nơi.
Đó là quả xấu thứ nhì của người phạm giới, người không có giới.
1 Aṅg. Tikanipātapāḷi, Devadūtavagga, Adhipateyyasuttapāḷi.
2 Dī. Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta, đoạn Dussīla ādīnava.
“Natthi loke rāho nāma, pāpakammaṃ pakubbato…
“Chỗ kín đáo không có trong đời này, đối với người tạo ác-nghiệp …”
* Trong kinh Mahāparinibbānasutta có đoạn:
– Này các người tại gia! Người phạm giới, người không có giới có bất-thiện-tâm e ngại, sợ sệt khi đi vào nơi hội đoàn hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Sa- môn, hội đoàn Bà-la-môn…
Đó là quả xấu thứ ba của người phạm giới, người không có giới.
– Này các người tại gia! Người phạm giới, người không có giới có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.
Đó là quả khổ thứ tư của người phạm giới, người không có giới.
– Này các người tại gia! Sau khi người phạm giới, người không có giới chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.
Đó là quả xấu, quả khổ thứ năm của người phạm giới, người không có giới.
– Này các người tại gia! Đó là 5 quả xấu, quả khổ của người phạm giới, người không có giới như vậy.
* Quả-báu Của Người Có Giới (Sīlavanta ānisaṃsa)
– Này các người tại gia! Có 5 quả-báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn. 5 quả- báu ấy là:
1- Này các người tại gia! Trong đời này, người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi (có trí-nhớ biết mình).
Đó là quả báu thứ nhất của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
2- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn, có danh thơm tiếng tốt được lan truyền khắp mọi nơi.
Đó là quả báu thứ nhì của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
3- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện-tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Sa-môn, hội đoàn Bà-la- môn…
Đó là quả báu thứ ba của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
4- Này các người tại gia! Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện-tâm tỉnh táo lúc lâm chung.
Đó là quả báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn.
5- Này các người tại gia! Sau khi người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn chết, đại- thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh cõi thiện dục- giới (cõi người, cõi trời dục-giới), hưởng mọi sự an-lạc trong cõi ấy.
– Này các người tại gia! Đó là 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn như vậy.
* Trong Chú-giải bài kinh Sakkapañhasutta, có đoạn đề cập đến những người có giới trong sạch có thể lựa chọn được cảnh tái-sinh 1 trong 6 cõi trời dục-giới:
“Parisuddhasīlā nāma chasu devalokesu yatthicchanti, tattha nibbattanti.”
Những người có giới trong sạch trọn vẹn lúc lâm chung, có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt muốn tái-sinh trên cõi trời nào trong 6 cõi trời dục-giới, thì sau khi chết, dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi trời dục-giới ấy như ý muốn, và hưởng được mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Như vậy, người phạm giới, người không có giới lúc lâm chung, có ác-tâm mê muội, sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới là địa- ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.
Người giữ gìn giới, người có giới trong sạch trọn vẹn lúc lâm chung, có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt muốn chọn cõi thiện-giới nào, nên sau khi chết, đại-thiện- nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới ấy đúng theo ý muốn, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện- giới ấy cho đến tuổi thọ, rồi tái-sinh kiếp sau trong cõi- giới khác tùy theo quả của nghiệp của chúng sinh ấy.
Cho nên, người được sinh ra trong đời này, chắc chắn tiền-kiếp của người ấy là người có giới trong sạch trọn vẹn, ít nhất ngũ-giới là thường-giới trong sạch và trọn vẹn.
Kiếp hiện-tại, nếu người nào có đại-thiện-tâm biết hổ- thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn ngũ-giới củamình được trong sạch và trọn vẹn bằng ý, thì người ấy là người biết tự trọng, biết giữ gìn nhân-phẩm quý báuvốn có của mình, từ khi đầu thai làm người.
Nếu người nào có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, phạm điều-giới nào trong ngũ-giới bằng thân hoặc bằng khẩu hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy, thì người ấy là người không biết tự trọng, làm mất đi nhân-phẩm quý báu vốn có của mình, từ khi đầu thai làm người.
Thật ra, mọi người có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội- lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn bằng ý, đó là điều rất dễ dàng đối với tất cả mọi người trong đời, bởi vì giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn là trong khả năng bình thường của mỗi người. Còn người nào có tác-ý trong ác-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu phạm mỗi điều-giới nào hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy, thì đó là điều rất khó khăn, mà không phải ai cũng có thể phạm giới được.
* Thật vậy, người thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt biết suy xét kỹ càng và trung thực, để có nhận thức đúng người giữ gìn mỗi điều-giới được trong sạch, đó là việc dễ làm hay khó làm, và người cố gắng phạm mỗi điều- giới hợp đủ chi-pháp, đó là việc khó làm hay dễ làm như sau:
* Điều-giới tránh xa sự sát-sinh
– Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh bằng tâm, biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự sát- sinh, tạo đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
– Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằngthân hoặc bằng khẩu giết hại chúng-sinh ấy chết, hợp đủ 5 chi-pháp của điều-giới sát-sinh, nên phạm điều-giới sát- sinh, tạo ác-nghiệp sát-sinh.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không sát-sinh với việc tạo ác-nghiệp sát-sinh, trong 2 việc này, việc nào dễlàm? Việc nào khó làm?
* Điều-giới tránh xa sự trộm-cắp
– Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự trộm-cắp bằng tâm, biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự trộm-cắp, tạo đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
– Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằngthân hoặc bằng khẩu trộm-cắp của cải tài-sản của người khác, hợp đủ 5 chi-pháp của điều-giới trộm-cắp, nên phạm điều-giới trộm-cắp, tạo ác-nghiệp trộm-cắp.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp với việc tạo ác-nghiệp trộm-cắp, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó làm?
* Điều-giới tránh xa sự tà-dâm:
– Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự tà-dâm bằng tâm, biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự tà-dâm, tạo đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.
– Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằngthân tà-dâm với vợ hoặc chồng, con của người khác, hợp đủ 4 chi-pháp của điều-giới tà-dâm, nên phạm điều-giới tà-dâm, tạo ác-nghiệp tà-dâm.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không tà-dâm với việc tạo ác-nghiệp tà-dâm, trong 2 việc này, việc nào dễlàm? Việc nào khó làm?
* Điều-giới tránh xa sự nói-dối:
– Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự
16
nói-dối bằng tâm, biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói-dối tạo đại-thiện-nghiệp không nói-dối.
– Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằngkhẩu nói dối lường gạt người khác, hợp đủ 4 chi-pháp của điều-giới nói-dối, nên phạm điều-giới nói-dối, tạo ác-nghiệp nói-dối
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không nói-dối với việc tạo ác-nghiệp nói-dối, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó làm?
* Điều-giới tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say:
– Người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say bằng tâm, biết giữ gìn điều-giới tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say, tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say.
– Người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằngkhẩu uống rượu, bia và các chất say, hợp đủ 4 chi-pháp của điều-giới uống rượu, bia và các chất say, nên phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say.
Như vậy, việc tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say với việc tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, trong 2 việc này, việc nào dễ làm? Việc nào khó làm?
* Nếu nhận thức đúng thì việc không sát-sinh, việc không trộm-cắp, việc không tà-dâm, việc không nói-dối, việc không uống rượu, bia và các chất say, là việc rất dễ làm, mà mọi người ai cũng đều làm được dễ dàng, bởi vì 5 việc ấy ở trong khả năng bình thường của tất cả mọi người.
Cho nên, người thiện có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội lỗi, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa đối-tượng phạm 5 điều-giới bằng tâm, biết giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, tạo đại- thiện-nghiệp giữ-giới, đó là việc rất dễ làm, mà tất cả mọi người đều làm được.
* Nếu nhận thức đúng thì việc sát-sinh, việc trộm-cắp, việc tà dâm, việc nói-dối, việc uống rượu, bia và các chất say, là việc rất khó làm, mà không phải là ai cũng có khả năng làm việc ấy được, bởi vì người nào làm 5 việc ấy, người ấy cần phải cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu thật là khó khăn mới có thể làm mỗi việc ấy được.
Cho nên, người ác có ác-tâm không biết hổ-thẹn tội- lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, có tác-ý trong ác-tâm cố gắng bằng thân hoặc bằng khẩu thật là khó khăn mới phạm mỗi điều-giới nào trong ngũ-giới hợp đủ chi-pháp của mỗi điều-giới ấy, để phạm điều-giới ấy, tạo ác- nghiệp, đó là việc rất khó làm mà không phải là ai cũng có khả năng làm được.
Sự thật, vấn đề dễ làm hay khó làm đối với mỗi hạng người có bản tính khác nhau. Đức-Phật dạy rằng:
“Sukaraṃ sādhunā sādhu, sādhu pāpena dukkaraṃ. Pāpaṃ pāpena sukaraṃ, pāpamariyehi dukkaraṃ.”(1)
– Này chư tỳ-khưu!
“Người thiện-trí dễ dàng tạo thiện-nghiệp.
Người thiện-trí rất khó khăn tạo ác-nghiệp. Kẻ ác dễ dàng tạo ác-nghiệp.
Bậc Thánh-nhân chắc chắn khó tạo ác-nghiệp.”
* Để phân biệt người ác với người thiện, Đức Phật dạy trong bài kinh Sikkhapadasutta
Đức-Phật dạy rằng:
“- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai sẽ thuyết giảng về người ác và người ác hơn người ác, người thiện và người thiện hơn người thiện. Các con hãy lắng nghe, nên chú tâm lắng nghe.”
Vâng lời theo Đức-Phật, chư tỳ-khưu chú tâm lắng nghe lời giáo huấn của Đức-Phật.
* Người Ác – Người Ác Hơn Người Ác
Đức-Phật dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người ác?
– Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người là người sát-sinh, là người trộm-cắp, là người tà-dâm, là người nói-dối, là người uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
– Này chư tỳ-khưu!Như-Lai gọi số người ấy là người ác. – Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người ác hơn
người ác?
– Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người tự mình sát-sinh, còn động viên, tác động, khuyến khích, sai khiến người khác cùng sát-sinh.
Số người tự mình trộm-cắp, còn động viên, tác động, khuyến khích, sai khiến người khác cùng trộm-cắp.
Số người tự mình tà-dâm, còn động viên, tác động, khuyến khích, sai khiến người khác cùng tà-dâm.
Số người tự mình nói-dối, còn động viên, tác động, khuyến khích, sai khiến người khác cùng nói-dối.
Số người tự mình uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, còn động viên, tácđộng, khuyến khích, sai khiến người khác cùng uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
– Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người ác hơn người ác.
* Người Thiện – Người Thiện Hơn Người Thiện
Đức-Phật dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người thiện?
– Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người là người tránh xa sự sát-sinh, là người tránh xa sự trộm-cắp, là người tránh xa sự tà-dâm, là người tránh xa sự nói-dối, là người tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
– Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người thiện.
– Này chư tỳ-khưu! Như thế nào gọi là người thiện hơn người thiện?
– Này chư tỳ-khưu! Trong đời này, số người tự mình tránh xa sự sát-sinh, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự sát-sinh.
Số người tự mình tránh xa sự trộm-cắp, còn động viên, tác-động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự trộm-cắp.
Số người tự mình tránh xa sự tà-dâm, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự tà- tà-dâm.
Số người tự mình tránh xa sự nói-dối, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự nói-dối.
Số người tự mình tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
– Này chư tỳ-khưu! Như-Lai gọi số người ấy là người thiện hơn người thiện.”
Như vậy, nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, có tác-ý trong ác-tâm phạm điều-giới nào trong ngũ-giới thì người ấy bị gọi là người ác.
Nếu người ác tự mình phạm điều-giới nào trong ngũ- giới, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng phạm điều-giới ấy trong ngũ-giới thì người ác ấy bị gọi là người ác hơn người ác.
* Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội- lỗi, biết tự trọng, có tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì gọi người ấy là người thiện.
Nếu người thiện tự mình giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cùng giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì người thiện ấy được gọi là người thiện hơn người thiện.
Ví dụ: Nếu người nào không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết tự trọng, có tác-ý trong ác-tâm tự mình uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, phạm điều- giới uống rượu, bia và các chất say, nên tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say thì người ấy bị gọi là người ác.
Nếu người ác nào tự mình uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, nên tạo ác- nghiệp uống rượu, bia và các chất say, mà còn động viên, tác động, mời mọc, tiếp đãi người khác cũng uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, cũng phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, cũng tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say, thì người ác ấy bị gọi là người ác hơn người ác.
* Nếu người nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội- lỗi, biết tự trọng, có tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, nên tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say được trong sạch thì người ấy được gọi là người thiện.
Nếu người thiện nào tự mình tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp được trong sạch, tạo đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say, mà còn động viên, tác động, khuyến khích người khác cũng có tác-ý trong đại- thiện-tâm tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, cũng tạo đại- thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say thì người thiện ấy được gọi là người thiện hơn người thiện.
* Những hạng thanh-văn đệ-tử có trí-tuệ sáng suốt hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
Thật ra, tất cả mọi thiện-pháp từ 8 dục-giới thiện- pháp, 5 sắc-giới thiện-pháp, 4 vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến 4 siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm được phát sinh và tăng trưởng đều do nương nhờ nơi pháp-hành giới trong sạch và trọn vẹn của hành-giả.
Pháp-hành trong Phật-giáo có 3 pháp-hành chính:
1- Pháp-hành giới.
2- Pháp-hành thiền-định.
3- Pháp-hành thiền-tuệ.
1- Pháp-hành giới là pháp-hành mà hành-giả thực- hành với tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, tránh xa 3 thân ác-nghiệp và 4 khẩu ác-nghiệp để thành tựu 3 thân đại-thiện- nghiệp và 4 khẩu đại-thiện-nghiệp.
Hành-giả thực-hành pháp-hành giới giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn có khả năng diệt từng thời (tadaṅgappahāna) được phiền-não loại thô (vītikkamakilesa) không biểu hiện ra ở thân và khẩu.
Pháp-hành giới mà hành-giả thực-hành giữ gìn giới của mình được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
Cho nên, pháp-hành giới là pháp-hành mà hành-giả cần phải thực-hành trước tiên.
2- Pháp-hành thiền-định là pháp-hành mà hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân nương nhờ giới trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có khả năng diệt bằng cách chế ngự (vikkhambhanap- pahāna) được phiền-não loại trung (pariyuṭṭhānakilesa) ở trong tâm.
Sau khi hành-giả chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 5 sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên), hưởng sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy,
Hoặc sau khi hành-giả chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 vô-sắc- giới quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, hưởng sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.
Hoặc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm còn có khả năng làm nền tảng, làm đối-tượng cho pháp-hành thiền-tuệ.
3- Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành mà hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân nương nhờ giới trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận (samucchedappahāna) được mọi phiền-não loại vi-tế ngấm ngầm trong tâm (anusayakilesa), diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Thật vậy, pháp-hành giới mà hành-giả thực hành giữ gìn giới của mình được trong sạch trọn vẹn, làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển. Cho nên, tất cả mọi thiện-pháp từ 8 dục-giới thiện-pháp, 5 sắc-giới thiện-pháp, 4 vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến 4 siêu-tam- giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm được phát sinh và tăng trưởng đều do nương nhờ giới trong sạch và trọn vẹn của hành-giả.
* Trong bài kinh Kimatthiyasutta(1)Đức-Phật giải đáp những câu hỏi của Ngài Trưởng-lão Ānanda về quả của giới, quả báu của giới theo tuần tự từ tam-giới thiện- pháp cho đến siêu-tam-giới-pháp được tóm lược như sau:
Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh-thành Sāvatthi.
Khi ấy Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức-Phật rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, giới thuộc về thiện pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
– Này Ānanda! Giới thuộc về thiện-pháp (kusalasīla) có tâm mát mẻ (avippaṭisāra) (tâm không nóng nảy) là quả, có tâm mát mẻ là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tâm mát mẻ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ (pāmojja) là quả, có tâm hài lòng hoan hỷ là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tâm hài lòng hoan hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Tâm hài lòng hoan hỷ có pháp hỷ (pīti) là quả, có pháp hỷ là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp hỷ có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Pháp hỷ có pháp an-tịnh (passaddhi) là quả, có pháp an-tịnh là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp an-tịnh có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Pháp an-tịnh có pháp an-lạc (sukha) là quả, có pháp an-lạc là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp an-lạc có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Pháp an-lạc có pháp thiền-định (samādhi) là quả, có pháp thiền-định là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp thiền-định có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda, pháp thiền-định có pháp thiền-tuệ (yathābhūtañāṇadassana) thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả, có pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật- tánh của sắc-pháp, danh-pháp có trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán (nibbidā) thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả, có trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc- pháp, danh-pháp là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp có pháp ly-dục (virāga) (A-ra- hán Thánh-đạo) là quả, có pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) là quả báu.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) có pháp nào là quả, có pháp nào là quả báu? Bạch Ngài.
– Này Ānanda! Pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) có pháp giải-thoát tri-kiến (vimuttiñāṇadassana) (A-ra-hán Thánh-quả) là quả, có pháp giải-thoát tri-kiến (A-ra-hán Thánh-quả) là quả báu.
– Này Ānanda! Giới thuộc về thiện-pháp có tâm mát mẻ (tâm không nóng nảy) là quả, có tâm mát mẻ (tâm không nóng nảy) là quả báu.
– Tâm mát mẻ có tâm hài lòng hoan hỷ là quả, có tâm hài lòng hoan hỷ là quả báu.
– Tâm hài lòng hoan hỷ có pháp hỷ là quả, có pháp- hỷ là quả báu.
– Pháp hỷ có pháp an-tịnh là quả, có pháp an-tịnh là quả báu.
– Pháp an-tịnh có pháp an-lạc là quả, có pháp an-lạc là quả báu.
– Pháp an-lạc có pháp thiền-định là quả, có pháp- thiền-định là quả báu;
– Pháp thiền-định có pháp thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả, có pháp- thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh- pháp là quả báu.
– Pháp-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc- pháp, danh-pháp có trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật- tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả, có trí-tuệ thiền- tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là quả báu.
– Trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán thật-tánh của sắc- pháp, danh-pháp có pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) là quả, có pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) là quả báu.
– Pháp ly-dục (A-ra-hán Thánh-đạo) có pháp giải- thoát tri-kiến (A-ra-hán Thánh-quả) là quả, có pháp giải-thoát tri-kiến (A-ra-hán Thánh-quả) là quả-báu.
– Này Ānanda! Giới thuộc về thiện-pháp có quả theo tuần tự từ tam-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả cao thượng, như vậy.
(Xong bài kinh Kimatthiyasutta)
Qua bài kinh Kimatthiyasutta này, giới thuộc về thiện-pháp trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ để cho tất cả mọi thiện-pháp tuần tự phát sinh từ nhân này đến quả kia liên hoàn với nhau từ tam- giới thiện-pháp đến siêu-tam-giới thiện-pháp.
Nếu hành-giả nào giữ gìn giới của mình trong sạch trọn vẹn thì hành-giả ấy có khả năng làm cho phát sinh mọi thiện-pháp tùy theo khả năng của hành-giả.
Cho nên, hành-giả giữ gìn, bảo vệ giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn là điều thiết yếu để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho mọi thiện-pháp được phát sinh và phát triển.
Muốn cho giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, hành-giả cần phải có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, biết giữ gìn nhân-phẩm cao quý vốn có trong con người của mình thì việc giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn ở trong khả năng bình thường của tất cả mọi hành-giả.
Trong quyển“Pháp-Hành Giới” này có trình bày các loại giới của người tại gia cư-sĩ như ngũ-giới, ngũ-giới hành phạm-hạnh, bát-giới ājivaṭṭhamakasīla, bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, thập-giới của người tại gia.
Trong các loại giới của người tại gia này, ngũ-giới và bát-giới ājivaṭṭhamakasīla gọi là thường-giới (nicca- sīla) của mọi người tại gia, không ngoại trừ một ai cả, nên tất cả mọi người tại gia cần phải giữ gìn 2 loại giới này suốt ngày đêm cho được trong sạch và trọn vẹn, bởi vì nếu hành-giả giữ gìn 2 loại giới này được trong sạch trọn vẹn thì được phước-thiện giữ-giới. Còn nếu người nào phạm điều-giới nào thì người ấy đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, đem lại sự tai hại trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Ngoài 2 loại giới ấy ra, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào có khả năng thọ-trì và giữ gìn bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, thập-giới của người tại gia cho được trong sạch và trọn vẹn, thì người ấy chắc chắn sẽ có được nhiều phước-thiện giữ giới đặc biệt và có quả- báu cũng đặc biệt hơn ngũ-giới.
Về phần giới của bậc xuất-gia sa-di và tỳ-khưu, thì trong quyển sách này chỉ trình bày tóm tắt mà thôi, bởi vì giới của sa-di và giới của tỳ-khưu có rất nhiều loại, cho nên, trong quyển sách nhỏ này không thể trình bày đầy đủ được.
Trong quyển sách “Pháp-hành giới” này, bần sư đã cố gắng hết sức mình để sưu tầm, gom nhặt từ nhiều nguồn tài liệu có liên quan về phần giới, từ Tam-tạng Pāḷi, các Chú-giải Pāḷi và số tài liệu khác chỉ được bấy nhiêu thôi!
Tuy bần sư cố gắng hết mình giảng giải để giúp cho độc giả tìm hiểu rõ về phần giới, song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ suất, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.
Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện-trí có tâm từ chỉ giáo, góp ý chân tình.
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an-lạc cho phần đông chúng ta.
Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện-trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.
Quyển sách “Pháp-hành giới” tái bản lần thứ nhì có sửa và bổ sung, được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp đỡ như là Dhammavara Sāmaṇera xem bản thảo, Dhammanandā upāsikā đã tận tâm xem kỹ lại bản thảo, dàn trang, làm thành quyển sách; các thí-chủ trong nước và ngoài nước có đức-tin trong sạch lo ấn hành và đã được nhà xuất bản tôn giáo cho phép ấn hành.
Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả quý vị.
Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (tỳ- khưu Hộ-Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Đại-Trưởng-lão Hộ-Tông, Vaṃsa- rakkhitamahāthera, là sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Đại-Trưởng-lão Thiện-Luật, Ngài Đại-Trưởng- lão Bửu-Chơn, Ngài Đại-Trưởng-lão Giới-Nghiêm, Ngài Trưởng-lão Hộ-Giác (chùa Từ-Quang) Ngài Trưởng-lão Hộ-Nhẫn (chùa Thiền-Lâm, Huế) cùng chư Đại-Trưởng- lão, đã dày công đem Phật-giáo Nguyên-thủy (Thera- vāda) về truyền bá trên quê hương Việt-Nam thân yêu, và xin kính dâng phần phước-thiện thanh cao này đến chư Đại-Trưởng-lão ở nước Thái-Lan, nước Myanmar (Miến-Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp-học và pháp-hành.
Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.
Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả bà con thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện-tại cho đến vô lượng kiếp trong quá-khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này để thoát khỏi cảnh khổ, được an-lạc lâu dài.
Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañ ceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phần phước- thiện pháp-thí thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng-sinh từ cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư- thiên trong các cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc-giới, …
Xin tất cả quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi cảnh khổ, hưởng được mọi sự an-lạc lâu dài trong khắp mọi nơi.
Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não trầm-luân, giảithoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt tận được mọi phiền-não trầm-luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tử sinh luân-hồi, thì do năng lực phước-thiện pháp- thí thanh cao này ngăn cản mọi ác-nghiệp không có cơ hội cho quả tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: địa ngục, a-su- ra, ngạ quỷ, súc-sinh; và cũng do năng lực phước-thiện thanh cao này chỉ hỗ trợ đại-thiện-nghiệp cho quả tái- sinh trong 7 cõi thiện-giới: cõi người, 6 cõi trời dục- giới… mà thôi.
Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con đều là người có chánh-kiến, có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh- pháp của bậc thiện-trí, có đức-tin trong sạch nơi bậc thiện-trí, cố gắng tinh-tấn thực-hành theo lời giáo-huấn của bậc thiện-trí, không ngừng tạo mọi pháp-hạnh ba- la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mong chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Trong kiếp tử sinh luân-hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con cũng liền phát sinh đại- thiện-tâm hỷ lạc, có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức-Phật, hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, cố gắng tinh-tấn thực- hành theo chánh-pháp của Đức-Phật, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Nay, chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo: quy-y nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nơi Đức- Pháp-bảo, quy-y nơi Đức-Tăng-bảo, và thành tâm hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp.
Do nhờ năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có duyên lành, tạo được nhân tốt sâu sắc trong Phật-giáo.
Do nhờ năng lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này theo hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con trong mỗi kiếp, dù cho được thành tựu quả-báu ở cõi người (manussasampatti) hưởng được mọi sự an-lạc đầy đủ trong cõi người như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc dù cho được thành tựu quả-báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được mọi an-lạc đầy đủ trong cõi trời như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời.
Thật ra, mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con chỉ có cầu mong sớm được thành tựu quả-báu chứng ngộ Niết-bàn (Nibbānasampatti) mà thôi, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ, khippameva samijjhatu.
Điều mong ước, ý nguyện của chúng con Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
P.L. 2560 / D.L. 2017
Rừng Núi Viên Không Xã Tóc Tiên,
Huyện Tân Thành Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)