4.1- Sát-hại-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt nghiệp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa, có 3 trường hợp:
1- Thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác.
2- Thiện-nghiệp bậc cao có phận-sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp bậc thấp khác.
3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp khác.
Giải thích 3 trường hợp:
1- Thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt bất-thiện-nghiệp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa như thế nào?
Ví dụ: Trước khi chưa chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla là kẻ cướp sát nhân đã từng giết chết hơn 1.000 người. Như vậy, bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) sát-sinh của Ngài Trưởng-lão khó tránh khỏi cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục.
Khi Đức-Thế-Tôn ngự đến tế độ và cho phép kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla xuất gia trở thành tỳ-khưu. Tỳ-khưu Aṅgulimāla thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đại-thiện-tâm mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc
Thánh-A-ra-hán cao-thượng.
Đến khi hết tuổi thọ, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. Cho nên, tất cả mọi bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) và mọi thiện-nghiệp mà Ngài Trưởng-lão đã từng tạo, và được lưu-trữ ở trong tâm từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp-hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.
Đó là trường-hợp siêu-tam-giới thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.
2– Thiện-nghiệp bậc cao có phận-sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp bậc thấp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa như thế nào?
Ví dụ: Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm tột đỉnh của bậc thiền sắc-giới.
Hành-giả có khả năng giữ gìn 5 bậc thiền sắc-giới ấy cho đến lúc chết. Hành-giả sau khi chết, chắc chắn chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng là đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm làm phận-sự tái-sinh kiếp sau lên tầng trời sắc-giới tột đỉnh.
– Nếu hành-giả là hạng phàm-nhân thì đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm làm phận-sự tái-sinh kiếp sau lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên gọi là Quảng-quả-thiên (hoặc Vô-tưởng-thiên), có tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất.
– Nếu hành-giả là bậc Thánh-Bất-lai thì đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm làm phận-sự tái-sinh 1 trong 5 cõi Tịnh-cư-thiên có tuổi thọ từ 1000 đại-kiếp trái đất đến 16.000 đại-kiếp trái đất, tùy theo mỗi tầng trời thấp cao. Bậc Thánh-Bất-lai chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới tại tầng trời
sắc-giới ấy.
Còn 4 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đó là đệ nhất thiền sắc-giới thiện-nghiệp cho đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-nghiệp đều bị sát hại, bị cắt đứt vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.
Cho nên, đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao có phận-sự sát hại, cắt đứt 4 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp không còn có cơ hội cho quả được nữa.
Hoặc hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định sau khi đã chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục thực-hành có khả năng chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.
Hành-giả sau khi chết, chỉ có bậc thiền phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-nghiệp bậc cao nhất cho quả tái-sinh kiếp sau lên tầng trời vô-sắc-giới Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiên có tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất.
Còn 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc thấp đều bị sát hại, bị cắt đứt vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.
Cho nên, đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao có phận-sự sát hại, cắt đứt 3 bậc thiền vô-sắc-giới
thiện-nghiệp bậc thấp không còn có cơ hội cho quả nữa.
Đó là trường-hợp thiện-nghiệp bậc cao có phận-sự sát hại, cắt đứt thiện-nghiệp bậc thấp khác vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả được nữa.
3– Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại cắt đứt thiện-nghiệp khác không còn có cơ hội cho quả được nữa như thế nào?
Người nào đã tạo 8 dục-giới đại thiện-nghiệp, 5 sắc-giới thiện-nghiệp và 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp.
Về sau, người ấy bị phạm ác-nghiệp vô-gián trọng- tội thuộc vào 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (pañcānantariyakamma) là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư-tỳ-khưu-Tăng.
Người ấy sau khi chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián trọng-tội này có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa ngục Avīci mà thôi, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất mà thôi. Còn các thiện-nghiệp khác đều bị sát hại, bị cắt đứt không có cơ hội cho quả.
Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt mọi thiện-nghiệp khác không có cơ hội cho quả được nữa.
4.2- Sát-hại-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của nghiệp khác, cắt đứt một phần hoặc cắt đứt toàn phần, sát hại sinh mạng của chúng-sinh ấy, có 4 trường hợp:
1- Thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của ác-nghiệp.
2- Thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại–thiện-nghiệp khác.
3- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại–thiện-nghiệp.
4- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác.
Giải thích 4 trường hợp:
1- Thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn,
sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) như thế nào?
Ví dụ: Trường hợp nhóm ngạ-quỷ đã từng là thân quyến của Đức-vua Bimbisāra từ thời Đức-Phật Phussa có thời gian cách Đức-Phật Gotama 92 đại-kiếp trái đất, trải qua 6 Đức-Phật.
Tiền kiếp của nhóm ngạ-quỷ là nhóm thân quyến của Đức-vua Bimbisāra trong thời kỳ Đức-Phật Phussa, đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp vật thực của chư Đại-đức-Tăng, tự mình ăn và cho con cái ăn.
Nhóm người ấy sau khi chết, ác-nghiệp trộm-cắp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, từ cõi địa-ngục lớn đến cõi địa-ngục nhỏ, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trải qua thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất. Đến lúc mãn quả của ác-nghiệp trong cõi địa-ngục nhỏ, song ác-nghiệp ấy vẫn còn có năng-lực cho quả tái-sinh làm kiếp ngạ quỷ chịu cảnh đói khát khổ cực.
Trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, nhóm ngạ quỷ đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đến khi nào chúng con mới có thân quyến làm phước bố-thí, rồi hồi hướng phần
phước-thiện ấy đến cho loài ngạ quỷ chúng con, để cho chúng con được thoát khỏi cảnh khổ đói khát, được an lạc? Bạch Ngài.
Đức-Phật Kassapa truyền dạy rằng:
– Này các ngạ quỷ! Bây giờ, các con chưa có được gì
đâu! Các con ráng chờ đến thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, Đức-vua Bimbisāra đã từng là thân quyến của các con cách đây 92 đại-kiếp trái đất. Đức-vua Bimbisāra sẽ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật Gotama cùng chư Đại-đức-Tăng, rồi sẽ hồi hướng phần phước-thiện ấy cho các con.
Nghe lời thọ ký của Đức-Phật Kassapa, nhóm ngạ quỷ vô cùng hoan hỷ chờ đợi, mong ngóng, từ thời Đức-Phật Kassapa cho đến thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, trải qua một thời kỳ lâu dài chờ đợi.
Đến thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh-thành Rājagaha trị vì xứ Magadha. Đức-Phật Gotama ngự cùng với chư tỳ-khưu-Tăng đến kinh-thành Rājagaha, thuyết pháp tế độ Đức- vua Bimbisāra cùng với các quan trong triều và dân chúng trong kinh-thành Rājagaha.
Sau khi lắng nghe chánh pháp, Đức-vua đã chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập-lưu, phần đông các quan và dân chúng cũng chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập-lưu.
Đức-vua Bimbisāra phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam-bảo, xây dựng ngôi chùa Veḷuvana xong, làm lễ dâng cúng dường đến chư Đại-đức-Tăng có Đức-Phật chủ trì. Khi ấy, Đức-vua quên hồi hướng phần phước-thiện đến cho nhóm ngạ quỷ.
Nhóm ngạ quỷ vô cùng thất vọng, đêm đến chúng hiện đến cung điện của Đức-vua kêu la, khóc than thảm thiết phát ra những âm thanh đáng kinh sợ.
Sáng ngày hôm sau, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bèn bạch hỏi do nhân nào có âm thanh đáng kinh sợ như vậy.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này Đại-vương! Đại-vương không nên kinh sợ! Đó là tiếng kêu la than khóc của nhóm ngạ-quỷ. Nhóm ngạ- quỷ này đã từng là thân quyến của Đại-vương trong kiếp-quá-khứ, chúng trông ngóng từ lâu, với hy vọng Đại-vương làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho chúng, để chúng thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ-quỷ, nhưng Đại-vương làm phước-thiện bố-thí xong, không hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho chúng. Vì vậy, nhóm ngạ-quỷ thất vọng hiện đến kêu la than khóc như vậy”.
Lắng nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, nên Đức-vua Bimbisāra bèn bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con xin kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng đến cung điện của con, để con làm phước-thiện cúng dường một lần nữa. Lần này, con sẽ hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho nhóm ngạ quỷ thân quyến của con.
Đức-Thế-Tôn nhận lời bằng cách im lặng.
Đức-vua Bimbisāra đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cung điện.
Sáng hôm sau, Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại- đức-Tăng đến cung điện của Đức-vua Bimbisāra. Chính Đức-vua tự tay dâng cúng dường vật thực đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại đức-Tăng, rồi Đức-vua Bimbisāra hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ thân quyến.
Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Tirokuḍḍapetavatthu tế độ nhóm ngạ-quỷ. Nhóm ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí ấy đồng nói lên lời “ Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Ngay khi ấy, nhờ dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy, tất cả nhóm ngạ quỷ đều thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, liền cho quả tái-sinh làm chư thiên trên cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Đó là trường-hợp dục-giới đại-thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).
Chúng ta có diễm phúc được sinh làm người, nên có cơ hội tốt làm phước-thiện bố-thí, còn các chúng-sinh khác khó có cơ hội tốt làm phước-thiện bố-thí như chúng ta. Cho nên, chúng ta gặp được dịp may, có cơ hội tốt làm phước-thiện bố-thí những nhu cầu cần thiết đến cho người khác, thì chúng ta không nên bỏ lỡ cơ hội tốt ấy.
Chúng ta nên nghĩ rằng: “Những thứ của cải nào mà ta đem ra làm phước-thiện bố-thí, thì những vật thí ấy mới thật sự trở thành phước-thiện của riêng ta. Những thứ của cải khác còn lại thuộc về của chung, thì không chắc là của riêng ta được. ”
Sau khi ta đã làm phước-thiện bố-thí rồi, không chỉ ta có phước-thiện riêng của ta, mà còn hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho thân bằng quyến thuộc của ta và tất cả chúng-sinh khác đã quá vãng nữa. Khi họ phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ thọ nhận được phần phước-thiện ấy, rồi họ được thoát khỏi kiếp sống khổ, đồng thời được hưởng sự an-lạc lâu dài, như tái-sinh làm người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới. Thật là hạnh-phúc biết dường nào!
Vì vậy, sau khi đã làm phước-thiện nào rồi, chúng ta nên hồi hướng đến thân quyến của chúng ta bằng câu pāḷi và tiếng Việt như sau:
“Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo,”
Chúng con xin thành tâm hồi hướng,
Trọn phần phước-thiện thanh cao này,
Đến các thân quyến của chúng con,
Kể từ vô lượng kiếp-quá-khứ,
Mãi cho đến kiếp-hiện-tại này.
Cầu xin tất cả mọi thân quyến,
Hoan hỷ thọ nhận phước-thiện này,
Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ,
Hưởng được sự an lạc lâu dài.
Hoặc hồi hướng đến tất cả chúng-sinh như sau:
“Imaṃ puññabhāgaṃ sabbasattānaṃ dema,
sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu”.
Chúng con xin thành tâm hồi hướng,
Trọn phần phước-thiện thanh cao này,
Đến tất cả chúng-sinh muôn loài,
Trong ba giới bốn loài cả thảy.
Cầu xin quý vị đều hoan hỷ,
Thọ nhận phước-thiện thanh cao này,
Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ,
Hưởng được sự an lạc lâu dài.
Nếu chúng-sinh nào phát sinh thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện thanh cao ấy thì chúng-sinh ấy đang ở trong cõi khổ, sẽ được giải thoát khỏi cõi khổ ngay tức thì.
Nếu chúng-sinh ấy đang ở trong cõi an lạc thì sự an-lạc càng được tăng trưởng. Đó là điều hạnh phúc cao thượng biết dường nào!
2– Thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn sắc-pháp, danh-pháp là quả của thiện-nghiệp khác như thế nào?
Ví dụ: Người tại gia là cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân
lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.
Sau đó, nếu bậc Thánh-A-ra-hán không xuất gia trở thành tỳ-khưu thì bậc Thánh-A-ra-hán ấy chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy, không thể duy trì sinh mạng sang ngày hôm sau được, bởi vì phạm- hạnh cao-thượng của bậc Thánh-A-ra-hán không thích hợp với đời sống của người tại gia. Cho nên, bậc Thánh-A-ra-hán phải tịch diệt Niết-bàn trong ngày hôm ấy.
* Trong thời kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, trường hợp Đức-vua Suddhodana (Phụ hoàng của Đức-Phật) sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn ngay ngày hôm ấy.
* Trường hợp vị quan đại cận thần Santati trong triều đình của Đức-vua Pasenadi Kosala, sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi đảnh lễ xin phép Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn ngay ngày hôm ấy.
* Đối với người tại gia khi trở thành bậc Thánh-A-ra-
hán có siêu-tam-giới thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn là quả của đại-thiện-nghiệp khác, gọi là Ngũ-uẩn Niết-bàn ngay trong ngày hôm ấy, không thể duy trì sinh mạng sang ngày hôm sau.
Cho nên, người tại gia sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, nếu bậc Thánh-A-ra-hán ấy cần duy trì sinh mạng cho đến hết tuổi thọ thì bậc Thánh-A-ra-hán ấy phải xuất gia trở thành tỳ-khưu.
*Như trường hợp đặc biệt trong thời kỳ Đức-Phật còn
hiện hữu trên thế gian, trường hợp bà Khemā là chánh cung Hoàng hậu của Đức-vua Bimbisāra, sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, Đức-vua Bimbisāra chấp thuận cho bà xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.
Ngài Đại-đức tỳ-khưu ni Khemā là bậc Thánh-nữ Tối- thượng-thanh-văn xuất sắc nhất về trí-tuệ trong hàng Thánh-nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Đó là trường-hợp siêu-tam-giới thiện-nghiệp có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp.
3– Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại-thiện-nghiệp như thế nào?
Ví dụ: Con người sinh ra đời, có ngũ-uẩn tốt đẹp, thân thể khoẻ mạnh, có đầy đủ ngũ quan tốt (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân)… Đó là quả của đại-thiện-nghiệp trong kiếp-quá-khứ.
Người ấy tòng quân đi chiến đấu, giữa trận địa, hai bên giao chiến với nhau, người ấy chẳng may bị thương nặng gẫy chân, và các vết thương khác quá nặng nên bị tử trận (chết do bất-thiện-nghiệp trong kiếp-hiện-tại).
Hoặc trường hợp người bị tai nạn làm cho gẫy chân hoặc gẫy tay, hoặc bị mù mắt, bị điếc gây thương tích trọn đời hoặc bị thương nặng rồi tử vong, hoặc bị lâm bệnh nặng gây ra bệnh mất trí cuồng điên cho đến chết.
(chết do bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong kiếp-quá-khứ)
Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của đại- thiện-nghiệp.
4– Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác như thế nào?
Ví dụ: Tất cả mọi loài súc sinh sinh ra trên trái đất này đều là quả của bất-thiện-nghiệp trong kiếp-quá-khứ.
Số loài súc sinh gặp nhau cắn xé lẫn nhau, gây thương tích cho nhau, thậm chí còn cắn chết rồi ăn thịt nữa. (chết do ác-nghiệp trong kiếp-hiện-tại).
Hoặc trường hợp, số loài súc sinh bị tai nạn gây ra thương tích trọn đời, hoặc bị thương nặng rồi tử vong
(chết do bất-thiện-nghiệp trong kiếp-quá-khứ).
Đó là trường-hợp bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có phận-sự sát hại, cắt đứt ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp là quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) khác.