Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi
Để giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo cho được đầy đủ, nguyên vẹn, không để rời rạc, không cho thất lạc, cho nên, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão đã kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng tiếng Pāḷi trải qua các thời-kỳ như sau:
Kỳ Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi Lần Thứ Nhất
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đứng ra tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn 3 tháng 4 ngày, trong mùa an cư nhập hạ tại động Sattapaṇṇi gần thành Rājagaha xứ Māgadha.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này gồm có 500 vị Thánh A-ra-hán có đầy đủ tứ-tuệ phân-tích, lục thông, … đặc biệt thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì đại hội, đọc tuyên ngôn đoạn cuối kết luận rằng:
“……Saṃgho appaññattaṃ nappaññapeti, paññattaṃ na samucchindati, yathāpaññattesu sikkhāpadesu samādāya vattati, khamati saṃghassa, tasmā tuṇhī evametaṃ dharayāmi.”(1)
“……Chư tỳ-khưu-Tăng! Không được phép chế-định thêm điều-giới nào mà Đức-Phật không chế-định, không được phép xoá bỏ điều-giới nào mà Đức-Phật đã chế-định. Chư tỳ-khưu Tăng cần phải giữ gìn, duy trì, thực- hành nghiêm chỉnh đúng theo các điều-giới mà Đức- Phật đã chế định. Tất cả chư tỳ-khưu-Tăng đều hài lòng nên làm thinh. Tôi ghi nhận sự hài lòng này của quý vị bằng trạng-thái làm thinh như vậy.”
Tất cả chư tỳ-khưu Tăng gồm có 500 bậc Thánh A-ra- hán đều đồng tâm nhất trí tuân theo lời tuyên ngôn của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì chất vấn Ngài Trưởng-lão Upāli giải đáp về Tạng Luật, và chất vấn Ngài Trưởng-lão Ānanda giải đáp về Tạng Kinh Pāḷi và Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được thực hiện suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này bằng cách truyền khẩu (mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức-vua Ajātasattu đất nước Māgadha là người hộ độ chư Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này.
Phân Chia Phận Sự Duy Trì Tam-Tạng Pāḷi, Ngũ-Bộ
Sau khi kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi xong, chư Thánh A-ra-hán phân công mỗi vị có bổn phận giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi như sau:
* Về Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão Upāli. Ngài Trưởng-lão có bổn phận dạy Tạng Luật Pāḷi và Chú-giải tạng Luật Pāḷi đến nhóm đệ-tử để giữ gìn duy trì Tạng Luật Pāḷi và Chú-giải tạng Luật Pāḷi này.
Khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, Đức-Phật đã từng tuyên dương Ngài Trưởng-lão Upāli là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về trì luật trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
* Về Trường-bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão Ānanda. Ngài Trưởng- lão có bổn phận dạy trường-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử để giữ gìn duy trì Trường-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải trường-bộ-kinh Pāḷi này.
* Về Trung-bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của nhóm đệ tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Các vị Đại-đức này có bổn phận dạy trung- bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Trung-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa. Ngài Đại-Trưởng-lão có bổn phận dạy đồng-loại-bộ- kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về Chi-bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāya) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão Anuruddha. Ngài Trưởng- lão có bổn phận dạy chi-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Chi-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về Tiểu-bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi), thuộc về phận sự chung của 500 chư Thánh A-ra-hán. Quý Ngài có bổn phận dạy tiểu-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến các nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Tiểu-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭaka- pāḷi) gồm có 7 bộ lớn, thuộc phận sự chung của 500 chư Thánh A-ra-hán. Quý Ngài có bổn phận dạy Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi và Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi đến các nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật Gotama được kết tập lại đầy đủ trọn vẹn. Ngài Đại-Trưởng-lão và chư Vị Trưởng-lão có bổn phận dạy cho các hàng đệ tử học thuộc lòng, ghi nhớ đầy đủ trọn vẹn Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, gìn giữ duy trì pháp-học Phật-giáo cho được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho tất cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại
Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi Lần Thứ Nhì
Giáo-pháp của Đức-Phật được giữ gìn duy trì nguyên vẹn đúng theo pháp-học Phật-giáo trải qua được 100 năm, thì có nhóm tỳ-khưu Vajjīputta xứ Vesālī đặt ra 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật là:
1- Kappati siṅgīloṇakappo: Tỳ-khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với tác-ý rằng:
“Muối dùng làm đồ gia vị món ăn ngày hôm sau, cũng được”.
2- Kappati dvaṅgulakappo: Tỳ-khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả qua hai lóng tay, cũng được.
3- Kappati gāmantarakappo: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ rằng:
“Bây giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không cần làm đúng theo luật, cũng được”.
4- Kappati āvasakappa: Trong cùng mahāsīmā có nhiều nhóm riêng rẽ cùng hành uposathakamma, cũng được.
5- Kappati anumatikappo: Chư Tăng trong nhóm đang hành-Tăng-sự nghĩ rằng:
“Sẽ cho phép tỳ-khưu đến sau, cũng được”.
6- Kappati āciṇṇakapo: Tỳ-khưu hành theo pháp mà thầy tổ của mình thường thực-hành, cũng được.
7- Kappati amathitakappo: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi đã biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được.
8- Kappati jaḷogiṃ pātuṃ: Tỳ-khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất say, cũng được.
9- Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ: Tỳ-khưu dùng tọa cụ không có đường lai, cũng được.
10- Kappati jātarūparajataṃ: Tỳ-khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được.
Đó là 10 điều do nhóm tỳ-khưu Vajjīputta đề xướng không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật.
Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta nghe tin nhóm tỳ-khưu Vajjīputta xứ Vesālī đặt ra 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật như vậy. Ngài Đại- Trưởng-lão liền đến tận nơi hội họp chư tỳ-khưu-Tăng giải thích, để cho họ hiểu rõ, đó là 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật.
Đó là nguyên nhân khiến Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu tập kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhì tại ngôi chùa Vālikārama, gần thành Vesālī, khoảng thời gian 100 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này gồm có 700 bậc Thánh A-ra-hán có đầy đủ tứ tuệ- phân-tích, lục thông, thông thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, do Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta chủ trì. Ngài Đại-Trưởng-lão Revata chất vấn, Ngài Đại- Trưởng-lão Sabbakāmi giải đáp, …
Công cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được thực hiện trong khoảng thời gian suốt 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi hoàn toàn y theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này cũng bằng khẩu truyền (mukhapāṭha), chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức Vua Kālāsoka xứ Vesālī hộ độ kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này.
Giáo-pháp của Đức-Phật một lần nữa được giữ gìn duy trì đúng theo pháp-học Phật-giáo. Tất cả chư tỳ- khưu thực hành nghiêm chỉnh giới-luật, làm cho những người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo, lại phát sinh đức- tin, những người nào đã có đức-tin trong sạch nơi Tam- Bảo rồi, đức-tin càng tăng trưởng.
Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi Lần Thứ Ba
Sau kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì, Phật-giáo càng ngày càng phát triển, chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni càng đông, cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo càng nhiều. Các thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư tỳ-khưu rất đầy đủ, nhất là vào thời-kỳ Đức-vua Dhammāsoka (Asoka).
Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, trị vì toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, làm phước thiện bố-thí, cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư tỳ- khưu-Tăng rất đầy đủ, sung túc.
Trái lại, các nhóm tu-sĩ ngoại đạo thì đời sống thiếu thốn khổ cực. Vì vậy, một số tu-sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư tỳ-khưu, về mặt hình thức thì giống tỳ-khưu, nhưng về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà- kiến cố-hữu của mình không hề thay đổi.
Cho nên, chư tỳ-khưu thật chánh-kiến và tỳ-khưu giả tà-kiến sống lẫn lộn với nhau không thể hành-Tăng-sự chung với nhau được.
Tình trạng này kéo dài suốt 7 năm, chư tỳ-khưu trình sự việc này lên Đức-vua Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức-vua để thanh lọc tỳ-khưu giả ngoại đạo tà-kiến ra khỏi nhóm chư tỳ-khưu thật chánh-kiến.
Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, cũng là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hộ-trì phụng- sự Tam-bảo, Đức-vua học giáo-pháp của Đức-Phật với Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa, nên hiểu rõ chánh-kiến trong Phật-giáo và các tà-kiến của ngoại đạo.
Đức-vua Asoka thỉnh chư tỳ-khưu đến xét hỏi, qua cuộc xét hỏi này, Đức-vua đã loại được 60.000 tỳ-khưu giả có tà-kiến ra khỏi chư tỳ-khưu thật có chánh-kiến.
Đức-vua ban cho mỗi người một bộ đồ trắng, bắt buộc hoàn tục, trở thành người cư-sĩ, còn lại tất cả tỳ-khưu thật có chánh-kiến trong Phật-giáo đoàn kết cùng nhau hành-Tăng-sự trở lại.
Nhân dịp này, Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa đứng ra triệu tập kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ ba.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này được tổ chức tại chùa Asokārāma, xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này gồm có 1.000 bậc Thánh A-ra-hán có tứ-tuệ phân- tích, lục thông, thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện trong khoảng thời gian suốt 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi hoàn toàn giống như bản chánh của hai kỳ kết tập trước.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này cũng bằng khẩu truyền (Mukhapātha), chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức-vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ độ kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này.
Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi Lần Thứ Tư
Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, cũng là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hộ-trì phụng-sự Tam-bảo, không những hộ-trì Phật-giáo được phát triển trong nước, mà còn gửi các phái đoàn chư tỳ- khưu-Tăng sang các nước láng giềng khác, để truyền bá Phật-giáo.
Vào năm Phật lịch 236 sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Asoka gởi phái đoàn 5 vị tỳ-khưu- Tăng do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda(1) trưởng đoàn cùng với Ngài Trưởng-lão Iṭṭiya, Ngài Trưởng-lão Uttiya, Ngài Trưởng-lão Sambala, Ngài Trưởng-lão Bhaddasāla sang truyền bá Phật-giáo ở đảo quốc Srilankā.
Vào thời ấy, Đức-vua Devānampiyatissa trị vì đảo quốc Srilankā, là bạn thân của Đức-vua Asoka. Đức-vua Devānampiyatissa và các quan trong triều cùng với toàn thể dân chúng đón rước, cung thỉnh phái đoàn chư Trưởng-lão-Tăng rất trọng thể. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda thuyết-pháp tế độ Đức-vua cùng với các quan, dân chúng trên đảo quốc phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có số kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành cận- sự-nam, cận-sự-nữ.
Có số cận-sự-nam (upāsaka) xin xuất gia trở thành tỳ- khưu trong Phật-giáo.
Còn có số cận-sự-nữ (upāsikā) có ý nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong Phật-giáo, như bà Anuḷādevī Hoàng-hậu của Đức-vua Devānampiyatissa cùng với 500 cận-sự-nữ (upāsikā) trong hoàng tộc, và số đông cận-sự-nữ dân chúng trong đảo quốc.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda truyền dạy gửi đoàn sứ giả đến tâu Đức-vua Asoka, kính xin Đức-vua gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni sang đảo quốc Srilankā.
Đức-vua Asoka gửi phái đoàn chư tỳ-khưu-ni-Tăng do Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittāttherī(1) làm trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā, để hành lễ thọ tỳ-khưu-ni cho Hoàng-hậu Anuḷādevī và 500 cận-sự-nữ trong hoàng tộc và số đông cận-sự-nữ dân chúng trong đảo quốc.
Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittāttherī có kính thỉnh một cây Đại-Bồ-đề sang trồng trên đảo quốc Srilankā.
Cây Đại-Bồ-đề được thỉnh đến trồng tại tỉnh Anurādhapura đảo-quốc Srilankā. Cây Đại-Bồ-đề này được duy trì tồn tại cho đến nay vẫn còn tươi tốt. Nhà- nước Srilankā chăm sóc cây Đại-Bồ-đề rất chu đáo.
Phật-giáo được phát triển rất thịnh hành trên đảo quốc Srilankā, chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng tăng trưởng càng ngày càng đông.
Một thời đảo quốc Srilankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh thiếu thốn, nên đời sống của chư tỳ- khưu cũng chịu ảnh hưởng. Số Đại-đức tỳ-khưu sức khỏe yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi thuộc lòng rất vất vả.
Khi cuộc phiến loạn đã được dẹp xong, chư Đại- Trưởng-lão suy xét về sau này trí nhớ và trí-tuệ con người càng ngày càng kém dần, cho nên, chư Đại-đức tỳ-khưu học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi cho được đầy đủ trọn vẹn không phải là việc dễ dàng.
Một hôm, Đức-vua Vaṭṭagāmanī ngự đến ngôi chùa Mahāvihāra làm phước-thiện bố-thí, cúng dường vật dụng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Nhân dịp ấy, chư Đại-Trưởng-lão thưa với Đức-vua Vaṭṭagāmanī rằng:
– Thưa Đại-vương, từ xưa đến nay, chư Đại-đức tỳ- khưu có phận sự học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, để giữ gìn duy trì giáo-pháp của Đức-Phật.
Trong thời vị-lai, đàn hậu sinh là những Đại-đức tỳ- khưu, khó mà học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi một cách đầy đủ trọn vẹn được.
Như vậy, giáo-pháp của Đức-Thế-Tôn sẽ bị mai một theo thời gian.
– Thưa Đại-vương, muốn giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được đầy đủ và trọn vẹn.
Cho nên, chư Đại-Trưởng-lão có ý định tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng chữ viết ghi chép trên lá buông, để lưu lại cho đời sau.
Nghe chư Đại-Trưởng-lão thưa như vậy, Đức-vua Vaṭṭagāmanī phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với lời của chư Đại-Trưởng-lão.
* Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ tư này được tổ chức tại động Ālokalena vùng Matulajanapada xứ Srilankā, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này gồm 1.000 bậc Thánh A-ra-hán có tứ tuệ-phân-tích, do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì, công cuộc kết tập ghi chép trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng chữ viết trên lá buông được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất.
Sau đó, chư bậc Thánh A-ra-hán kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng cách khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chánh của ba kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi trước.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này là lần đầu tiên được ghi chép bằng chữ viết trên lá buông đầy đủ trọn vẹn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi gọi là: “Potthakaropanasaṅgīti”.
Đức Vua Vaṭṭagāmanī Abhaya xứ Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này.
Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi Lần Thứ Năm
Dưới thời Đức-vua Asoka, Đức-vua có gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng do Ngài Đại-Trưởng-lão Soṇa và Ngài Đại-Trưởng-lão Uttara đi đến vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước: Indonesia, Myanmar, Thái-Lan, Campuchia, Lào, … để truyền bá Phật-giáo. Phật-giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc thăng trầm, tùy theo vận mệnh của mỗi nước.
Đất nước Myanmar vào thời đại Đức-vua Mindon đóng đô tại kinh-thành Mandalay, Đức-vua là người có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo, tận tâm hộ trì Tam-Bảo, suy nghĩ rằng:
“Phật-giáo thường liên quan đến sự tồn vong của đất nước, mỗi khi đất nước bị xâm lăng, kẻ thù thường đốt kinh sách Phật-giáo”.
Đức-vua Mindon muốn bảo toàn giáo-pháp của Đức- Phật, nên Đức-vua thỉnh chư Đại-Trưởng-lão tổ chức cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi khắc chữ trên những tấm bia đá, để giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi, Pháp-bảo cho được bền vững lâu dài.
Nghe Đức-vua thỉnh như vậy, chư Đại-Trưởng-lão vô cùng hoan hỷ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Đức-vua. Chư Đại-Trưởng-lão tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm tại kinh-thành Mandalay xứ Myanmar, Phật-lịch năm 2404.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm này gồm 2.400 Ngài Trưởng-lão toàn là những Bậc uyên bác Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, do Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Jāgara làm chủ trì, ngoài ra còn có những Ngài Trưởng- lão rất xuất sắc như Ngài Bhaddanta Narindabhidhaja, v.v…
Công trình khắc bộ Tam-tạng Pāḷi bằng chữ trên tấm bia đá bắt đầu khởi công vào năm Phật-lịch 2404 cho đến năm Phật-lịch 2415, trải qua suốt 11 năm ròng rã, mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi trên 729 tấm bia đá:
– Tạng Luật Pāḷi gồm có 111 tấm.
– Tạng Kinh Pāḷi gồm có 410 tấm.
– Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 208 tấm.
Sau khi khắc trọn bộ Tam-tạng Pāḷi bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư Đại-Trưởng-lão tổ chức cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi bằng khẩu vấn và đáp suốt 6 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi y theo bản chánh của 4 kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần trước, gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm này do Đức- vua Mindon xứ Myanmar hộ độ.
Lần đầu tiên trọn bộ Tam-tạng Pāḷi được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá này hiện nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh-thành cổ Mandalay đất nước Myanmar.
Các nhà in kinh sách Phật-giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này làm nền tảng căn bản.
Về sau Vị Đạo-sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc trọn bộ Chú-giải Pāḷi trên những tấm bia đá. Hiện nay những tấm bia đá khắc trọn bộ Chú-giải Pāḷi vẫn còn nguyên vẹn tại kinh-thành cổ Mandalay.
Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi Lần Thứ Sáu
Phật-giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi), Phụ- chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi), … đã được in ra thành sách. Công việc sao đi chép lại, in đi in lại nhiều lần, khó mà tránh khỏi sự sai sót. Vì vậy, các bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, … của mỗi nước Phật-giáo có chỗ sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp-học Phật-giáo không hoàn toàn giống y nguyên bản chánh.
Chính-phủ Myanmar thành lập hội Phật-giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm Phật-lịch 2497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu, tại động nhân tạo Lokasāma (Kaba-Aye), thủ-đô Yangon, Myanmar.
Chính phủ Myanmar thỉnh tất cả mọi bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) hiện có trên các nước Phật-giáo, để làm tài liệu đối chiếu từng chữ, từng câu của mỗi bản.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu này gồm 2.500 Ngài Trưởng-lão thông hiểu Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi … rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành nhiều ban đối chiếu sửa lại cho đúng.
Công việc được thực hiện bắt đầu từ ngày rằm tháng tư Phật-lịch năm 2498 cho đến ngày rằm tháng tư Phật- lịch năm 2500, ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong bộ Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭha- kathāpāḷi), Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi), …
Sau đó, chính-phủ Myanmar thỉnh chư Ngài Đại- Trưởng-lão, chư Trưởng-lão kết tập Tam-tạng Pāḷi bằng khẩu chất vấn và giải đáp, do Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Revata chủ trì, Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Sobhana vấn, và Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭaka- kovida Tipiṭakadhara dhammabhaṇḍāgarika thông- thuộc Tam-tạng Pāḷi và thấu suốt Tam-tạng Pāḷi, bậc Thủ kho tàng Tam-tạng Pāḷi giải đáp đúng theo Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Trong buổi đại lễ trọng thể này, chính-phủ Myanmar, đứng đầu là Thủ-tướng U Nu, tổ chức hoàn thành kết tập Tam-tạng Pāḷi rất long trọng, có mời các nguyên-thủ quốc gia của các nước Phật-giáo cùng với phái đoàn chư Tăng, cận-sự-nam, cận-sự-nữ gồm có 25 nước trên thế giới đến tham dự, để đánh dấu lịch sử Phật-giáo đã trải qua một nửa tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của chính-phủ Myanmar cùng các cận-sự-nam, cận-sự- nữ trong nước và các nước trên thế giới.
Bộ Tam-tạng Pāḷi gồm có 40 quyển, bộ Chú-giải Pāḷi gồm có 51 quyển, bộ Phụ-chú-giải Pāḷi gồm có 26 quyển và các bộ khác hoàn thành trong kỳ kết tập lần thứ sáu này được xem là mẫu mực cho các nước Phật-giáo Theravāda.
Để Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng-sinh được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại-Trưởng- lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp-học Phật-giáo từ thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, và sau khi Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn.
Tất cả quý Ngài Đại-Trưởng-lão có phận sự bảo tồn đầy đủ trọn vẹn pháp-học Phật-giáo, nên quý Ngài Đại- Trưởng-lão đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi không để cho rời rạc, thất lạc. Chư Đại- Trưởng-lão đã có công giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo từ trước cho đến nay.
Công việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp-học Phật-giáo, là bổn phận của các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di cũng như các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Hàng thanh-văn đệ-tử nào học thuộc lòng được lời giáo huấn của Đức-Phật bằng ngôn ngữ Pāḷi dù ít dù nhiều, thì hàng thanh-văn đệ-tử ấy đã gieo duyên lành trong Phật-giáo, bởi vì ngôn ngữ Pāḷi là mūlabhāsā: ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ của chư Phật quá-khứ, Đức- Phật Gotama hiện tại và chư Phật vị-lai.
Vì vậy, hàng thanh-văn đệ-tử nào học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi cần phải hiểu biết rõ ý nghĩa trực tiếp ngôn ngữ Pāḷi hoặc gián tiếp qua ngôn ngữ của nước mình, thì được lưu trữ, tích luỹ trong tâm của mình suốt trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Nếu kiếp nào gặp được Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp thì kiếp ấy dễ hiểu chánh-pháp, dễ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, …
Tại nước Myanmar, công việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được phổ cập đến chư sa-di, chư tỳ-khưu.
Hằng năm, bộ Tôn-giáo Myanmar có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi bằng tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
* Thi Tam-Tạng Pāḷi
Phật-lịch năm 2492 (dương-lịch năm 1948), chính phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo bắt đầu tổ chức kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi lần thứ nhất. Từ đó về sau, hằng năm đều có tổ chức thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi.
* Nếu vị sa-di, tỳ-khưu nào đậu kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi xong thì vị ấy được kính dâng danh-hiệu cao-thượng là Tipiṭakadhara: Bậc cao-thượng thông- thuộc Tam-tạng Pāḷi.
Tiếp theo thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi. Nếu vị tỳ-khưu nào thi đậu kỳ thi viết trả lời xong thì vị tỳ-khưu ấy được kính dâng danh-hiệu cao-thượng là Tipiṭakakovida: Bậc cao-thượng thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi.
Ngài Trưởng-Lão đã đậu cả 2 kỳ thi Tipiṭakadhara và Tipiṭakakovida là Bậc cao-thượng thông-thuộc và thấu- suốt Tam-tạng Pāḷi, và đặc biệt chính phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo kính dâng danh-hiệu cao-thượng nhất gọi là Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika: Bậc cao- thượng-thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi, Bậc thủ-kho-tàng- Pháp-bảo Tam-tạng Pāḷi đến Ngài Đại-Trưởng-lão có đầy đủ tài đức lớn.
* Đến Phật-lịch 2558 (dương-lịch 2014), đã trải qua 66 kỳ thi Tam-tạng Pāḷi, theo tài liệu của bộ Tôn-giáo Myanmar năm 2014 có kết quả qua kỳ thi Tam-tạng Pāḷi như sau:
* Ekapiṭakadhara là bậc thông-thuộc Nhất-tạng Pāḷi có 512 Ngài Đại-đức.
* Ekapiṭakadhara và Ekapiṭakakovida là bậc thông- thuộc Nhất-tạng Pāḷi và thấu suốt Nhất-tạng Pāḷi có 139 Ngài Đại-đức.
* Dvipiṭakadhara là bậc thông-thuộc Nhị-tạng Pāḷi có 61 Ngài Đại-đức.
* Dvipiṭakadhara và Dvipiṭakakovida là bậc thông- thuộc Nhị-tạng Pāḷi và thấu suốt Nhị-tạng Pāḷi có 28 Ngài Đại-đức.
* Tipiṭakadhara là bậc cao-thượng thông-thuộc Tam- tạng Pāḷi có 5 Ngài Trưởng-lão.
* Tipiṭakadhara và Tipiṭakakovida là bậc cao-thượng thông thuộc, thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi có 13 Ngài Trưởng-lão như sau:
1- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vicittāsārā- bhivaṃsa (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Mahātipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 6, Phật-lịch 2497 (D.l.1953) lúc Ngài 42 tuổi. (Ngài đã viên tịch năm 1992, thọ 81 tuổi).
2- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Neminda (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 12, Phật- lịch 2503 (D.l. 1959) lúc Ngài 32 tuổi. (Ngài đã viên tịch năm 1991, thọ 64 tuổi).
3- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Kosalla (Tipiṭaka- dhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍā- gārika) đậu trong kỳ thi thứ 16, Phật-lịch 2507 (D.L. 1963) lúc Ngài 36 tuổi. (Ngài đã viên tịch năm 1991, thọ 68 tuổi).
4- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sumaṅgalā- laṅkāra (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 26, Phật- lịch 2516 (D.l. 1972) lúc Ngài 27 tuổi. (Ngài đã viên tịch năm 2006, thọ 60 tuổi).
5- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sirindābhivaṃsa (Tipiṭakadhara,Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 37, Phật-lịch 2528 (D.l. 1984) lúc Ngài 42 tuổi.
6- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vāyāmindā- bhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 47, Phật- lịch 2538 (D.l. 1994) lúc Ngài 40 tuổi.
7- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sīlakkhandhā- bhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 52, Phật- lịch 2543 (D.l. 1999) lúc Ngài 36 tuổi.
8- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vaṃsapālā- laṅkāra (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 52, Phật- lịch 2543 (D.l. 1999) lúc Ngài 34 tuổi.
9- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Gandhamālā- laṅkāra (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 53, Phật- lịch 2544 (D.l. 2000) lúc Ngài 33 tuổi.
10- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sundara (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 56, Phật-lịch 2547 (D.l. 2004) lúc Ngài 48 tuổi.
11- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Indakapāla (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 56, Phật-lịch 2547 (D.l. 2004) lúc Ngài 43 tuổi.
12- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Abhijātābhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, đậu trong kỳ thi thứ 62, Phật-lịch 2553 (D.l. 2010) lúc Ngài 41 tuổi.
13- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Indācariya (Tipiṭaka- dhara, Tipiṭakakovida) đậu trong kỳ thi thứ 64, Phật-lịch 2555 (D.l. 2012) lúc Ngài 47 tuổi.
Nước Myanmar đã có 13 Ngài Đại-Trưởng-Lão đã thi đậu Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida và còn các Ngài Trưởng-lão khác đã thi đậu Tipiṭakadhara, đậu Dvipiṭakadhara, Dvipiṭakadhara và Dvipiṭakakovida, Ekapiṭakadhara, Ekapiṭakadhara và Ekapiṭakakovida,…
Quý Ngài Đại-Trưởng-lão là Bậc đáng tôn kính đối với tất cả các hàng thanh-văn biết dường nào!
Pháp-học Phật-giáo là nền tảng căn bản của pháp- hành Phật-giáo. Thật vậy, Phật-giáo được duy trì do nhờ pháp-học Phật-giáo, cho nên quý Ngài Đại-Trưởng- lão đã cố công giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo lưu truyền lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho chúng-sinh, nhất là nhân- loại và chư-thiên.
Học Tam-Tạng Pāḷi Qua Các Thời-kỳ
* Thời-kỳ đầu: Kể từ khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian cho đến trước Phật-lịch năm 450, trong khoảng thời gian này, trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi chưa ghi thành chữ viết, cho nên, việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng cách khẩu truyền tâm thọ. Vị thầy dạy đọc, các học trò lặp theo ghi nhớ nằm lòng.
Như vậy, vị thầy thông-thuộc được chừng nào, các học trò cũng thông-thuộc được chừng ấy. Nếu vị thầy không thuộc lòng bộ nào, thì vị thầy gửi các học trò của mình đến Ngài Đại-Trưởng-Lão khác xin học bộ ấy.
Cho nên, việc học trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi trong thời-kỳ ấy rất vất vả khó khăn.
* Thời-kỳ sau: Kể từ sau thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư, khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần này được ghi bằng chữ viết trên lá buông. Cho nên, việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi tương đối ít vất vả khó khăn hơn thời- kỳ trước, song có phần hạn chế, bởi vì số bổn Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được ghi trên lá buông không nhiều.
* Thời hiện-tại này: Hầu hết các nước Phật-giáo lớn như: Nước Myanmar, nước Thái-Lan, nước Srilankā, nước-Lào, nước Campuchia, v.v… đều có trọn bộ Tam- tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi được in ra thành sách bằng mẫu tự của nước mình. Cho nên, việc học trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, nhưng việc dạy Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi và việc học Tam-tạng Pāḷi trong mỗi nước chưa phổ biến rộng đến toàn thể các hàng xuất-gia chư sa-di, chư tỳ- khưu, hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Hiện nay tại nước Myanmar, các Ngài Đại-Trưởng- lão dạy Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, và chư sa-di, chư tỳ-khưu theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi tại nhiều ngôi chùa lớn trong thủ-đô Yangon và các ngôi chùa lớn tại các tỉnh thành lớn.
Hằng năm, chính-phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo tổ chức kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi, để cho chư sa-di, chư tỳ-khưu đến dự thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
* Thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, việc thông hiểu về pháp-học Phật-giáo không những chư Đại- Trưởng-lão, chư Trưởng-lão, chư sa-di, mà còn có nhiều vị cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.
Thí dụ: Cận-sự-nam Cittagapati là bậc Thánh Bất-lai cũng là vị pháp sư được Đức-Phật Gotama tuyên dương. Cận-sự-nữ Khujjuttarā là tỳ-nữ của bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập- lưu có tài thuyết pháp tế độ bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng với 500 nữ hầu bà, đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu. Cận-sự-nữ Khujjuttarā trở thành Bahussutā: Bậc đa văn túc trí được Đức-Phật Gotama tuyên dương.
Về sau, Cận-sự-nữ Khujjuttarā cũng trở thành Tipiṭaka- dharā: Bậc thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi, v.v…
Ngày nay, công việc bảo tồn pháp-học Phật-giáo là phận sự chung của các hàng thanh-văn đệ-tử gồm cả bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu lẫn các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.
Để giữ gìn, duy trì pháp-học Phật-giáo chỉ có một phương pháp duy nhất là mỗi người thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu, cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần phải học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi, Ṭīkāpāḷi, Anuṭīkāpāḷi, … theo khả năng của mình, để lưu-trữ, tích luỹ trong tâm của mình, để tạo duyên lành sâu sắc trong Phật-giáo thật sự.
Nếu khi đã thông hiểu pháp-học Phật-giáo thì hành- giả mới có thể thực-hành đúng theo pháp-hành-giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được.
Hoặc khi giảng dạy đến người khác, cũng đúng theo chánh-pháp. Cho nên, học pháp-học Phật-giáo sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho mình và cho người khác. Đặc biệt còn giữ gìn và duy trì bảo tồn pháp-học Phật-giáo được trường tồn trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho tất cả chúng-sinh.