CHƯƠNG II : TAM BẢO (RATANATTAYA)
RATANA: BẢO LÀ GÌ?
Bảo hay báu (ratana) nghĩa là những gì quý báu đáng hài lòng, đáng hoan hỷ nhất.
Chú giải bài kinh Dhātuvibhaṅgasutta trình bày những châu báu (ratana) được tóm lược như sau:
Chọn món quà vô giá
Đức vua Bimbisāra ngự tại kinh thành Rājagaha trị vì quốc độ Magadha (Trung xứ), Đức vua muốn chọn một món quà quý báu nhất, để gởi biếu Đức vua Pukkusāti, người bạn thân thiết ngự tại kinh thành Takkasila ở xứ biên địa. Đức vua Bimbisāra suy xét rằng:
Trong đời này châu báu có hai loại:
– Vật báu: Vàng, bạc, ngọc ngà, kim cương,…
– Sinh mạng báu: Những chúng sinh cao quý…
Trong hai loại báu này, sinh mạng báu là cao quý hơn cả.
Sinh mạng báu có hai loại:
– Gia súc báu: Ngựa báu, voi báu…
– Nhân loại báu: Bậc thiện trí có tài, có đức…
Trong hai loại báu này, nhân loại báu là cao quý hơn cả.
Nhân loại báu có hai hạng:
– Nữ báu: Chánh cung Hoàng hậu của Đức Chuyển Luân Thánh Vương.
– Nam báu: Đức Chuyển Luân Thánh Vương.
Trong hai loại báu này, nam báu quý hơn nữ báu, bởi vì người nữ quý trọng người nam.
Nam báu có hai hạng:
– Người tại gia báu: Đức vua, Đức Chuyển Luân Thánh Vương…
– Bậc xuất gia báu: Vị Sadi, vị Tỳ-khưu…
Trong hai hạng người báu này, dù là Đức vua hay Đức Chuyển Luân Thánh Vương cũng cung kính đảnh lễ vị Sadi, vị Tỳ-khưu. Do đó, bậc xuất gia báu là cao quý hơn cả.
Bậc xuất gia báu có hai bậc:
– Bậc hữu học báu: Đó là hạng thiện trí phàm nhân và 3 bậc Thánh Nhân: “bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai” còn phải học và hành giới-định-tuệ.
– Bậc vô học báu: Đó là bậc Thánh Arahán đã học và hành giới-định-tuệ đầy đủ xong rồi.
Ân đức của 100 ngàn vị Thánh hữu học cũng không bằng Ân đức của một vị Thánh vô học. Do đó trong hai bậc Thánh này, bậc Thánh vô học là cao quý hơn cả.
Bậc Thánh vô học báu có hai bậc:
– Bậc Thánh Thanh Văn vô học báu: Đó là bậc Thánh Arahán Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
– Đức Phật Bảo: Đó là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả trở thành Đức Phật cao thượng mà không có thầy chỉ giáo.
Ân đức của 100 ngàn vị Thánh Thanh Văn vô học báu, cũng không bằng Ân đức của một Đức Phật Bảo. Do đó, trong hai bậc này, Đức Phật Bảo là cao thượng hơn cả.
Đức Phật Bảo có hai bậc:
– Đức Phật Độc Giác: Là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả trở thành Đức Phật Độc Giác. Đức Phật Độc Giác có nhiều vị, song quý Ngài không giáo huấn chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn y theo Ngài được.
– Đức Phật Chánh Đẳng Giác: Là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị. Đức Phật Chánh Đẳng Giác có khả năng thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn y theo Ngài.
Ân đức của 100 ngàn vị Đức Phật Độc Giác cũng không bằng Ân đức của Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do đó, trong hai Đức Phật Bảo này, Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng hơn cả.
Sau khi suy xét, Đức vua Bimbisāra truyền hỏi nhóm sứ giả của Đức vua Pukkusāti rằng:
– Này các khanh, Đức vua Pukkusāti ngự tại kinh thành Takkasila có biết Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng đã xuất hiện trên thế gian này hay không?
Đoàn sứ giả tâu với Đức vua Bimbisāra rằng:
– Muôn tâu Đại vương, trong kinh thành Takkasila chưa từng nghe đến danh hiệu của Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, thì Đức vua của hạ thần làm sao biết được Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng đã xuất hiện trên thế gian.
Đức vua Bimbisāra suy xét rằng:
“Đức vua Pukkusāti người bạn thân thiết chưa hề hay biết Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng đã xuất hiện trên thế gian. Vậy ta nên chọn: Ân đức Phật, Ân đức Pháp, Ân đức Tăng làm món quà pháp vô giá biếu Đức vua Pukkusāti”.
Món quà Pháp Bảo
Đức vua Bimbisāra lấy một tấm vàng ròng không mỏng, không dày, chiều dài bốn hắc tay (cùi), chiều rộng một gang tay, ngự lên tầng lầu cao nguyện thọ trì 8 giới (uposathasīla), để thân và khẩu được trong sạch.
Đầu tiên Đức vua khắc 9 Ân đức Phật.
Buddhaguṇa: Ân đức Phật
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro Purisadammasārathi, Satthādevamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā”
Ý nghĩa 9 Ân đức Phật:
1) Arahaṃ: Đức Arahán là Bậc cao thượng có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên và nhân loại.
2) Sammāsambuddho: Đức Chánh Đẳng Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót, đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh; đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị.
3) Vijācaraṇasampanno: Đức Minh Hạnh Túc là Bậc có đầy đủ Tam Minh, Bát Minh và 15 Đức Hạnh cao thượng.
4) Sugato: Đức Thiện Ngôn là Bậc thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng sinh.
5) Lokavidū: Đức Thông Suốt Tam Giới là Bậc thấy rõ, biết rõ chúng sinh thế giới, cõi thế giới, pháp hành thế giới.
6) Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô Thượng giáo hóa chúng sinh là Bậc giáo huấn chúng sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm nhân lên bậc Thánh Nhân.
7) Satthādevamanussānam: Đức Thiên Nhân Sư là Bậc Thầy của chư thiên, chư phạm thiên, nhân loại…
8) Buddho: Đức Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác độc nhất vô nhị, rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài; cũng chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn tùy theo năng lực ba-la-mật và hạnh nguyện của mỗi chúng sinh.
9) Bhagavā: Đức Thế Tôn là Bậc có 6 Ân đức đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật của Ngài.
Đó là ý nghĩa tóm tắt 9 Ân đức Phật.
Đức vua khắc câu kệ tán dương Ân đức Phật.
Yaṃ kiñci vittaṃ vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ panītaṃ
Na no samaṃ atthi Tathāgatena
Idampi Buddhe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.Tất cả mọi châu báu trong cõi người
Trong cõi Long vương, cùng các cõi trời,
Cũng không thể sánh bằng Đức Phật Bảo,
Đức Phật này là châu báu vô thượng.
Do năng lực của lời chân thật này
Mong hết thảy chúng sinh được an lành.
Tiếp theo Đức vua khắc 6 Ân đức Pháp:
Dhammaguṇa: Ân đức Pháp
“Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi”.
Ý nghĩa 6 Ân đức Pháp:
1- Svākkhāto dhammo: Pháp gồm có 10 chánh pháp mà Đức Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràng và thanh tịnh.
10 chánh pháp là:
– Pháp học chánh pháp.
– 9 pháp Siêu tam giới (4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả + 1 Niết Bàn).
2- Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh pháp gồm 9 pháp Siêu tam giới mà chư Thánh Nhân đã chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn nào, rồi tự thấy, tự biết bằng trí tuệ của mình.
3- Akāliko dhammo: Chánh pháp đó là 4 Thánh Đạo cho quả tương xứng 4 Thánh Quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Đạo nào liền cho Thánh Quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.
4- Ehipassiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới thuộc Chân nghĩa pháp rất trong sạch và thanh tịnh, nên dám mời đến để chứng kiến, để thực chứng, thực đắc.
5- Opaneyyiko dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới là pháp nên hướng tâm chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
6- Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo: Chánh pháp đó là 9 pháp Siêu tam giới mà chư bậc thiện trí Thánh Nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh Quả hưởng an lạc Niết Bàn tịch tịnh.
Đó là ý nghĩa tóm tắt 6 Ân đức Pháp.
Đức vua khắc câu kệ tán dương Ân đức Pháp:
“Yaṃ Buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
Samādhi mānantarikaññamāhu
Samādhinā tena samo na vijjati
Idampi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.Đức Phật cao thượng nhất thường tán dương
Chánh định thanh tịnh trong Thánh Đạo nào
Cho liền Thánh Quả ấy không ngăn cách
Mà các bậc thiền định trong tam giới
Không sánh bằng chánh định Siêu tam giới,
Đức Pháp này là châu báu vô thượng
Do năng lực của lời chân thật này,
Mong hết thảy chúng sinh được an lành.
Tiếp theo Đức vua khắc 9 Ân đức Tăng:
Saṃghaguṇa: Ân đức Tăng
“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa”.
Ý nghĩa 9 Ân đức Tăng:
1- Suppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc đã hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật.
2- Ujuppaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc đã hành trung thực đúng theo pháp hành Trung Đạo, không quanh co lầm lạc.
3- Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc đã hành theo pháp hành Bát Chánh Đạo chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
4- Sāmīcippaṭipanno: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc đã hành giới-định-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng sinh tôn kính lễ bái cúng dường.
Cattāri purisayugāni atthapurisapuggalā: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu tam giới).
Chư Thánh Thanh Văn có 4 đôi:
Nhập Lưu Thánh Đạo → Nhập Lưu Thánh Quả
Nhất Lai Thánh Đạo → Nhất Lai Thánh Quả
Bất Lai Thánh Đạo → Bất Lai Thánh Quả
Arahán Thánh Đạo → Arahán Thánh Quả
Chư Thánh Thanh Văn có 8 bậc Thánh:
4 Thánh Đạo + 4 Thánh Quả: Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhất Lai Thánh Đạo, Bất Lai Thánh Đạo, Arahán Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Quả, Arahán Thánh Quả.
5- Āhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.
6- Pāhuneyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.
7- Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.
8- Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường.
9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn là phước điền cao thượng của chúng sinh không đâu sánh được.
Đó là ý nghĩa tóm tắt của 9 Ân đức Tăng.
Đức vua khắc câu kệ tán dương Ân đức Tăng.
“Ye puggalā attha sataṃ pasatthā
Cattāri etāni yugāni honti
Te dakkhiṇeyyā Sugatassa sāvakā
Etesu dinnāni mahapphalāni
Idampi Saṃghe rataṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu”.Chư bậc Thánh thiện trí thường tán dương
Tám bậc Thánh là bốn đôi tương xứng
Chư Thánh Tăng ấy xứng đáng thọ nhận
Những phẩm vật cúng dường của thí chủ.
Quả báu lớn sẽ phát sinh đến họ,
Đức Tăng này là châu báu vô thượng
Do năng lực của lời chân thật này,
Mong hết thảy chúng sinh được an lành.
Pháp hành thiền định
Sau khi khắc Ân đức Tam Bảo xong, Đức vua khắc pháp hành thiền định, đề mục niệm hơi thở ra – hơi thở vô. Giảng giải tỉ mỉ phương pháp bắt đầu tiến hành đề mục niệm hơi thở ra – hơi thở vô cho đến khi chứng đắc tuần tự 4 bậc thiền hữu sắc.
Đức vua nhấn mạnh đặc biệt rằng: “Giáo pháp của Đức Phật dẫn dắt chúng sinh giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Nếu bạn có thể xuất gia được, thì thật là một điều cao quý nhất”.
Sau khi khắc xong món quà Pháp Bảo, Đức vua truyền lệnh đoàn sứ giả mang lá thư đến trình lên Đức vua Pukkusāti, yêu cầu Đức vua chuẩn bị làm lễ đón rước món quà Pháp Bảo cho thật long trọng. Trong thư Đức vua Bimbisāra ghi rõ rằng: “Khi cung kính tiếp nhận món quà Pháp Bảo này xong, bạn cung thỉnh lên lâu đài, chỉ một mình bạn mở ra cung kính đọc mà thôi”.
Đức vua Pukkusāti tiếp đoàn sứ giả, nhận được thư của Đức vua Bimbisāra. Đọc xong lá thư Đức vua liền truyền lệnh các quan trang hoàng cung điện thật lộng lẫy, sửa sang trang hoàng con đường từ kinh thành Takkasila đến biên giới, để làm lễ đón rước món quà Pháp Bảo của Đức vua Bimbisāra.
Tôn kính món quà Pháp Bảo
Với tâm tôn kính Pháp Bảo, Đức vua tự tay mình sắp đặt món quà Pháp Bảo từ đầu đến cuối. Trước tiên trải một tấm vải mịn dệt bằng lông thú trên tấm vàng ấy, rồi cuốn tròn lại đặt vào trong cái hộp nhỏ quý giá, tiếp theo đặt cái hộp nhỏ này vào trong cái hộp bằng vàng, đặt cái hộp bằng vàng này vào trong cái hộp bằng bạc, đặt cái hộp bằng bạc này vào trong cái hộp ngọc maṇī, đặt cái hộp bằng ngọc maṇī này vào trong cái hộp xích châu, đặt hộp xích châu này vào trong cái hộp hồng ngọc, đặt hộp hồng ngọc này vào trong cái hộp bích ngọc, đặt hộp bích ngọc vào trong cái hộp thạch anh, đặt hộp thạch anh vào trong cái hộp ngà, đặt hộp ngà vào trong cái hộp đá quý, đặt hộp đá quý vào trong các cái tháp và đặt tuần tự từ tháp nhỏ đến tháp lớn; cho đến cái tháp chắc chắn và đẹp nhất, xung quanh cái tháp này được quấn vải rồi đóng dấu ấn của Đức vua.
Đức vua Bimbisāra truyền lệnh rằng:
Này các Khanh, các Khanh hãy truyền lệnh của Trẫm đến các quan, quân và thần dân thiên hạ sửa sang, trang hoàng con đường từ kinh thành đến biên giới, để làm lễ cung nghinh tiễn đưa món quà Pháp Bảo đến kinh thành Takkasila.
Lễ cung nghinh Pháp Bảo
Được biết Đức vua Pukkusāti đã chuẩn bị sẵn sàng làm lễ đón rước món quà Pháp Bảo. Đức vua Bimbisāra tổ chức cuộc đại lễ tiễn đưa rất trọng thể. Đức vua Bimbisāra mặc đại lễ phục, làm lễ cung thỉnh ngôi Tháp Bảo đặt lên cái ngai quý báu trên lưng con voi báu của triều đình, bên trên có chiếc lọng màu trắng, có cờ hiệu của Đức vua; làm lễ cúng dường Pháp Bảo xong, cung kính tiễn đưa món quà Pháp Bảo đến kinh thành Takkasila. Đức vua ngự theo sau con voi báu cho đến biên giới mới ngừng lại; một lần nữa, Đức vua lễ bái cúng dường Pháp Bảo xong, mới truyền lệnh tiếp tục lên đường cung nghinh Pháp Bảo sang biên giới xứ khác. Đức vua đứng nhìn theo và nghĩ rằng: “Con đem hết lòng tôn kính Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, nay con tiễn đưa Pháp Bảo đến kinh thành Takkasila, con thành kính như đang tiễn đưa Đức Phật”. Đến khi đoàn tùy tùng cung nghinh Pháp Bảo đi xa dần, không còn nhìn thấy nữa, Đức vua mới chịu hồi cung.
Lễ đón rước món quà Pháp Bảo
Đức vua Pukkusāti tổ chức lễ đón rước món quà Pháp Bảo tại biên giới rất long trọng, rồi cung nghinh về đến kinh thành Takkasila nhằm vào ngày rằm (ngày giới). Đức vua làm lễ tiếp nhận tại cung điện xong, làm y theo lời dặn trong thư của Đức vua Bimbisāra; Đức vua cung thỉnh lên lâu đài, không cho phép một ai theo hầu. Đặt món quà Pháp Bảo trên bàn, Đức vua quỳ gối, cung kính mở lớp vải có dấu ấn của Đức vua Bimbisāra, tuần tự mở từ cái tháp lớn đến các tháp nhỏ, đến lượt mở các hộp ngọc cũng tuần tự từ ngoài vào trong. Cuối cùng nhìn thấy một cuộn tấm vàng ròng, Đức vua hai tay nâng lên, đỡ ra đặt trên bàn và từ từ mở cuộn tấm vàng ròng ấy. Thấy mặt trên có lớp vải mịn quý giá, Đức vua nghĩ rằng: “Chắc chắn hôm nay ta được đọc điều ta chưa từng đọc, được biết điều ta chưa từng biết”.
Hai tay cung kính dở lớp vải mịn, nhìn thấy các dòng chữ đều đặn, Đức vua phát sinh đức tin trong sạch, bắt đầu chăm chú đọc từng chữ, từng câu 9 Ân đức Phật, liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ. Đức vua ngồi nhắm mắt hưởng sự an lạc một lát, rồi chăm chú đọc tiếp từng chữ, từng câu 6 Ân đức Pháp. Cũng như lần trước, phát sinh hỷ lạc chưa từng có, Đức vua cũng ngồi nhắm mắt hưởng sự an lạc. Tiếp theo chăm chú đọc từng chữ từng câu 9 Ân đức Tăng, cũng như hai lần trước phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có, rồi ngồi hưởng sự an lạc. Một lát sau, Đức vua đọc pháp hành thiền định, đề mục niệm hơi thở ra – hơi thở vô. Đức vua tiến hành thực hành niệm hơi thở ra – hơi thở vô theo sự hướng dẫn của Đức vua Bimbisāra, tuần tự chứng đắc từ đệ nhất thiền hữu sắc, đệ nhị thiền hữu sắc, đệ tam thiền hữu sắc cho đến đệ tứ thiền hữu sắc bậc thiền cao nhất của thiền sắc giới. Đức vua an hưởng sự an lạc thanh tịnh của thiền, kéo dài suốt nửa tháng, không quan tâm đến công việc triều chính. Thấy vậy, các quan trong triều, thần dân tụ hội thỉnh cầu Đức vua lâm triều trông coi triều đình, trị vì đất nước.
Nghe các quan yêu cầu như vậy, Đức vua suy xét: “Ta nên tiếp tục làm vua trị vì đất nước này, hay ta nên xuất gia theo giáo pháp của Đức Phật”. Quyết định xuất gia, nên Đức vua lấy thanh gươm cắt tóc, mở cánh cửa sổ ném tóc xuống và truyền bảo rằng: “Các ngươi hãy chọn người trị vì đất nước này”.
Tiếp theo, Đức vua truyền gọi vị quan cận thần thân tín đi tìm y bát đất, rồi tự mình mặc y với tác ý thiện tâm xuất gia theo giáo pháp của Đức Phật.
Sau đó, Đức vua trong hình tướng là một bậc xuất gia mặc y mang bát bước xuống lâu đài, đi ra khỏi thành Takkasila hướng đến kinh thành Rājagaha khoảng cách 192 do tuần. Khi đến kinh thành Rājagaha, Đức vua Pukkusāti không ngự vào cung điện yết kiến Đức vua Bimbisāra,mà nghỉ nhờ đêm tại lò gốm. Trong đêm ấy, Đức Thế Tôn từ kinh thành Sāvatthi ngự đến lò gốm cũng xin nghỉ nhờ qua đêm, để có cơ hội thuyết pháp tế độ Đức vua Pukkusāti, nhưng Đức Thế Tôn dùng thần thông che dấu kim thân của Ngài; mọi người chỉ thấy Ngài như một vị Tỳ-khưu bình thường mà thôi. Vì vậy, Đức vua Pukkasāti ở chung với Đức Phật từ đầu hôm, mà không nhận biết được Đức Phật.
Nhận thấy Đức vua Pukkusāti đang mệt mỏi, vì đi đường xa, nên Đức Phật đợi Đức vua Pukkusāti nghỉ ngơi cho lại sức. Khi ấy Đức Phật mới thuyết pháp tế độ Đức vua Pukkusāti. Khi nghe pháp xong, Đức vua Pukkusāti liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả cho đến Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Bất Lai, đồng thời nhận biết được Đức Thế Tôn.
Đức vua Pukkusāti đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin sám hối điều lỗi lầm của mình và kính xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia Sadi – Tỳ-khưu nơi Đức Thế Tôn. Nhưng rất tiếc vì chưa đủ tam y, nên Đức Phật chưa cho phép xuất gia trở thành Sadi – Tỳ-khưu. Trong khi Đức vua Pukkusāti đang tìm vải nơi đống rác, để may y, một con bò chạy đến húc vào Đức vua làm cho Đức vua chết ngay tại nơi ấy. Đức vua vốn là bậc Thánh Bất Lai, nên sau khi chết, do đệ tứ thiền sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh cõi trời sắc giới Tịnh Cư Thiên (Suddhavāsa) cõi thứ nhất gọi là Vô Phiền Thiên (Avihā) sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo – Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn tại cõi trời ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Quả báu của món quà Pháp Bảo
Đức vua Pukkusāti đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, có quyết định quan trọng từ bỏ ngôi vua, xuất gia gặp được Đức Phật. Và sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, Đức vua đã chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh bậc thứ ba trong Phật giáo, được tái sinh lên cõi trời sắc giới Phạm thiên Tịnh Cư Thiên, chắc chắn trở thành bậc Arahán và nhập Niết Bàn tại cõi trời sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
Đức vua Pukkusāti có được những quả báu tốt lành ấy là nhờ món quà Pháp Bảo của Đức vua Bimbisāra đã gửi biếu. Cho nên món quà Pháp ấy thật là vô giá.
Trong đời có những món quà quý giá đáng hài lòng; nếu món quà ấy là của một nhân vật quan trọng đáng tôn kính, thì nó trở thành một vật kỷ niệm, một của gia bảo trong gia đình. Như vậy, món quà ấy có giá trị về cả vật chất lẫn tinh thần, nhưng đem so sánh với món quà phápmà người đã biết sử dụng để nâng đỡ cuộc đời của người ấy trở nên cao thượng, trở thành bậc thiện trí phàm nhân hoặc bậc Thánh Nhân, thì món quà pháp ấy thật là vô giá biết dường nào.
Cho nên, Đức Phật dạy:
“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti…”
Pháp thí thắng tất cả mọi sự thí…
Như vậy, biết sử dụng chánh pháp làm món quà biếu đến những người thân yêu của mình, không những gây được môt thiện cảm khó quên, mà còn đem lại cho họ sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
Tiền kiếp Đức vua Pukkusāti.
Trong tích Ngài Đại đức Bāhiyadārucīriya có đoạn đề cập đến tiền kiếp của Đức vua Pukkusāti. Đức vua đã từng là một vị Tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức Phật Kassapa thời quá khứ. Vào thời ấy, giáo pháp của Đức Phật Kassapa sắp bị mai một. Một nhóm bảy vị Tỳ-khưu phát sinh động tâm, đồng tâm nhất trí với nhau, quyết tâm cố gắng tiến hành thiền tuệ, trước khi Phật giáo chưa bị mai một. Bảy vị Tỳ-khưu đảnh lễ ngôi Tháp Bảo, dẫn nhau vào rừng làm một cái thang bắc lên núi. Bảy vị Đại đức leo lên núi xong, xô đẩy cái thang ngã xuống. Bảy vị Đại đức quyết tâm tiến hành thiền tuệ. Ngay đêm thứ nhất, một vị Đại đức chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Lục thông. Ngài sử dụng thần thông bay đi khất thực đem về chia cho 6 vị Tỳ-khưu còn lại. Nhưng 6 vị Tỳ-khưu ấy không chịu nhận vật thực, chỉ có quyết tâm tiến hành thiền tuệ mà thôi. Đến ngày thứ hai một vị Đại đức chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai có thần thông. Ngài sử dụng thần thông bay đi khất thực đem về chia cho 5 vị Tỳ-khưu còn lại, nhưng 5 vị Tỳ-khưu ấy cũng không chịu nhận vật thực, chỉ có quyết tâm tiến hành thiền tuệ mà không chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả nào, vẫn còn là vị Tỳ-khưu phàm nhân. Đến ngày thứ bảy, thì cả 5 vị Đại đức đều viên tịch, do nhờ nghiệp thiện cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.
Vào thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, 5 vị thiên nam chết từ cõi trời, do thiện nghiệp tái sinh làm người. Một vị là Đức vua Pukkusāti, các vị còn lại là Kumārakassapa, Dārucīriya, Dabba Mallaputta và Satiya Paribbājaka.
Do phước thiện ba-la-mật đã tích luỹ từ nhiều kiếp trong quá khứ, cho nên khi Đức vua Pukkusāti tiếp nhận được món quà Pháp Bảo của Đức vua Bimbisāra, có được cơ hội tốt làm nhân duyên phát sinh mọi thiện pháp đến với Đức vua Pukkusāti. Còn các vị khác đều có duyên lành đến hầu Đức Phật, được lắng nghe Đức Phật thuyết pháp tế độ, họ đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán.