PHẬT GIÁO (BUDDHASASANA)
Phật giáo là lời giáo huấn của Đức Phật, từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại Đại cội Bồ đề, suốt 45 năm cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, cũng vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại khu rừng Kusinārā.
Phật giáo có 3 phần chính:
Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana)
Pháp hành Phật giáo (Paṭipattisāsana)
Pháp thành Phật giáo (Paṭivedhasāsana)
Pháp học Phật giáo đúng đắn làm nền tảng căn bản cho pháp hành Phật giáo được phát triển đúng. Khi pháp hành Phật giáo phát triển đúng đắn dẫn đến kết quả là pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Pháp học Phật giáo là gì?
Trong chú giải Chi Bộ Kinh định nghĩa:
Pariyatti ti tepiṭakam Buddhavacanaṃ sāṭṭhakathā Pāḷi
Pháp học Phật giáo là Phật ngôn Tam Tạng cùng Chú giải Pāḷi.
Tiếng Pāḷi là ngôn ngữ chung của Chư Phật trong quá khứ, Đức Phật hiện tại và Chư Phật vị lai.
Pháp học Phật giáo gồm những lời giáo huấn, những điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm kể từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, được ghi chép trong Tam Tạng, mà trong đó gồm có lời của các hàng đệ tử, chư thiên, phạm thiên,… được Đức Phật nhắc lại hoặc xác nhận cũng xem như Phật ngôn, và Chú giải là lời giải thích của Đức Phật rải rác trong Tam Tạng gọi là Pakiṇṇa-kadesanā thuyết giảng giải thích những điều thắc mắc của các hàng đệ tử, cùng với lời giải thích của chư Thánh Arahán, gọi chung là Chú giải.
Pháp học là nền tảng căn bản của Phật giáo, nếu không có pháp học Phật giáo, thì chắc chắn sẽ không có pháp hành Phật giáo và pháp thành Phật giáo, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Nếu có pháp học Phật giáo đúng, thì có pháp hành Phật giáo đúng, nếu có pháp hành Phật giáo đúng, thì có pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
1- PHÁP VỊ GIẢI THOÁT (VIMUTTIRASA)
Phật giáo có một vị duy nhất là vị giải thoát khổ như Đức Phật đã dạy:
“Seyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso; Ayampi Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso…”
Này Pahārāda, như đại dương chỉ có một vị duy nhất “vị mặn”. Cũng như vậy, này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất “vị giải thoát khổ”.
Này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất “vị giải thoát khổ”.
Phân loại toàn giáo pháp của Đức Phật
2- PHẬT NGÔN (BUDDHAVACANA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật, Phật ngôn chia ra làm 3 thời kỳ:
Phật ngôn đầu tiên (Paṭhama buddhavacana).
Phật ngôn thời kỳ giữa (Majihima buddhavacana).
Phật ngôn cuối cùng (Pacchima buddhavacana).
Phật ngôn đầu tiên là gì?
Đức Bồ Tát Siddhattha chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, tại Đại cội Bồ đề vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), Ngài đang an hưởng vị giải thoát suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết 2 bài kệ ở trong tâm rằng:
“Anekajātisamsāram
Sandhāvissam anibbisam
Gahakāraṃgavesanto
Dukkhājāti punappunam.
Gahakāraka! dittho’si
Puna geham na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūtam visaṅkhatam
Visaṅkhāram gatam cittam
Tanhānam khayamajjhagā” .Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân”
Như Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân hồi vô số kiếp
Tái sinh mãi trong tam giới là khổ,
Này tham ái, người thợ xây nhà “thân”!
Bây giờ Như Lai đã gặp ngươi rồi !
Tất cả sườn nhà, “phiền não” của ngươi,
Như Lai đã hủy hoại sạch cả rồi
Đỉnh nhà “vô minh”, cũng bị tiêu diệt,
Nay ngươi không còn xây nhà Như Lai
Tâm Như Lai đã chứng ngộ Niết Bàn
Diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái,Như Lai đã chứng đắc A-ra-hán.
Hai bài kệ này mà Đức Phật tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn thời kỳ đầu tiên của Đức Phật.
Phật ngôn cuối cùng là gì?
Đức Phật du hành thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ, khắp mọi nơi, từ cõi người đến cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới (không có cõi trời vô sắc giới, bởi vì phạm thiên cõi này không có sắc uẩn (không có lỗ tai để lắng nghe Chánh Pháp) suốt 45 năm ròng rã ngày đêm. Đến ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức Phật ngự đến khu rừng Kusinārā để tịch diệt Niết Bàn. Trước giờ tịch diệt Niết Bàn, vào canh chót, Đức Phật nhắc nhở khuyên dạy các hàng đệ tử đứng đầu là Tỳ-khưu rằng:
“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo
Vayadhammā saṅkhārā
Appamādena sampādetha”
Này chư Tỳ-khưu, bây giờ Như Lai nhắc nhở khuyên dạy các con lần cuối cùng. Tất cả các pháp hữu vi có trạng thái diệt là thường, các con hãy nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ.
Đó là Phật ngôn cuối cùng của Đức Phật.
Thật vậy, Đức Phật chấm dứt câu chót:
“Appamādena sampādetha”
Từ đó, không còn dạy một lời nào nữa. Đức Phật nhập các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc và cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (khandhaparinibbāna) diệt ngũ uẩn rồi, không có ngũ uẩn nào khác tái sinh nữa, hoàn toàn giải thoát khổ sinh là giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Phật ngôn thời kỳ giữa là gì?
Ngoại trừ hai câu kệ tự thuyết đầu tiên và Phật ngôn thời kỳ cuối cùng ra, còn lại tất cả những lời giáo huấn, điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm.
Đó là Phật ngôn thời kỳ giữa của Đức Phật.
3- PHÁP VÀ LUẬT (DHAMMA VINAYA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật phân ra làm hai loại:
– Pháp (Dhamma) gồm có Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp.
– Luật (Vinaya) là Tạng Luật.
Trong kinh Đại Niết Bàn (Mahāparinibbānasutta), trước khi tịch diệt Niết Bàn. Đức Phật dạy Đại đức Ānanda rằng:
“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññato, so vo mamaccayena satthā” 2 .
– Này Ānanda, Pháp mà Như Lai đã thuyết, Luật mà Như Lai đã chế định, sau khi Như Lai đã tịch diệt Niết Bàn rồi, Pháp và Luật ấy là Tôn sư của các con.
Theo Chú giải kinh Đại Niết Bàn, giải thích:
Danh từ Dhamma: Pháp có nghĩa là Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp.
Danh từ Vinaya: Luật có nghĩa là Tạng Luật.
Tiṇi piṭakāni pañca nikāyā navaṅgāni caturasītidhammakkhandhasahassāni.
Tất cả Pháp và Luật phân chia thành Tam Tạng, Ngũ bộ, Cửu chi, 84.000 Pháp môn.
– Tạng Luật: Gồm có 21.000 Pháp môn.
– Tạng Kinh: Gồm có 21.000 Pháp môn.
– Tạng Vi Diệu Pháp: Gồm có 42.000 Pháp môn.
Đức Phật còn giảng giải rằng:
“Iti imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi. Ahañca kho dāni ekova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti amusāsissanti” .
Như vậy, 84.000 Pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn. Thật vậy, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con. Sau khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 Pháp môn ấy là “Tôn sư” sẽ giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con.
Trên đây là đoạn Chú giải mà Đức Phật đã giải thích, giảng dạy cho các hàng đệ tử nên hiểu biết rõ rằng:
Sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi, không phải không còn vị Tôn sư, mà khi ấy, 84.000 pháp môn chính là Tôn sư sẽ giáo huấn, sẽ theo dạy dỗ các hàng đệ tử.
Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo tạng thì có 3 tạng:
Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi).
Tạng Kinh (Suttantapiṭakapāḷi).
Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakkapāḷi)
a) Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi)
Tạng Luật gồm những lời răn dạy của Đức Phật. Đức Phật đã ban hành những điều giới Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, những phép hành tăng sự, những điều cho phép và những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm v.v…
Tạng Luật có 5 bộ
* Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều giới:
4 điều giới Pārājika
13 điều giới Saṃghādisesa
2 điều giới Aniyata
30 điều giới Nissaggiya pācittiya.
* Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều giới:
92 điều giới Suddha pācittiya
4 điều giới Pāṭīdesanīya
75 điều giới Sekhiya.
7 điều Adhikaraṇasamatha
Những điều giới của Tỳ-khưu ni.
* Bộ Mahāvagga (Tạng Luật)
Bộ luật Mahāvagga này, Đức Phật thuyết giảng về chuyện chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chuyện thuyết pháp Chuyển Pháp Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 Tỳ-khưu, Đức Phật ban hành phép xuất gia thọ Sadi, Tỳ-khưu v.v…
* Bộ Cūḷavagga
Bộ luật Cūḷavagga này, Đức Phật ban hành nhiều phép hành tăng sự đến chư Tỳ-khưu. Trong bộ này, lần đầu tiên Đức Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni trong giáo pháp của Đức Phật, cùng với 500 cận sự nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ Tỳ-khưu ni v.v…
* Bộ Parivāra
Bộ luật Parivāra này, Đức Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và nhiều vấn đề khác…
Đó là 5 bộ trong Tạng Luật mà Đức Phật là Bậc duy nhất chế định và ban hành đến chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không thể chế định ra điều giới và các phép hành tăng sự …
Tạng Luật có 3 đặc tính đặc biệt:
– Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
– Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana)
– Đức Phật răn dạy Tỳ-khưu giữ gìn thu thúc thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).
* Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào?
Đức Phật đã chế định ra điều giới, các phép hành tăng sự, điều cho phép và không cho phép, việc nên làm và không nên làm… đến chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni. Chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức Phật đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm, vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều giới, không ngoại trừ một ai.
Đức Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng Luật, còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không có quyền chế định một điều nào cả.
* Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào ?
Khi nào Tỳ-khưu hoặc Tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư Tăng. Khi ấy, Đức Phật mới chế định điều giới, ban hành đến chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, để đem lại 10 điều lợi ích như sau:
1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho Tỳ-khưu Tăng, Tỳ-khưu ni Tăng.
2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho Tỳ-khưu Tăng, Tỳ-khưu ni Tăng.
3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phá giới, khó dạy không biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.
4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni biết kính yêu giới.
5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để ngăn ngừa những tai họa xảy ra trong kiếp hiện tại.
6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để diệt trừ những tai họa 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) trong kiếp vị lai.
7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh đức tin đến những người chưa có đức tin nơi Tam Bảo.
8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức tin cho những người đã có đức tin nơi Tam Bảo.
9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho Chánh Pháp “pháp học, pháp hành, pháp thành” được trường tồn lâu dài.
10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh.
Đức Phật chế định giới điều, sau khi có Tỳ-khưu hoặc Tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu tiên. Cho nên, những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm lỗi đầu tiên; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy không phạm giới ấy. Đức Phật chế định điều giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức Phật chế định giới điều nào rồi, ban hành đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni; nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào cố ý phạm giới ấy, thì Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy gọi là đã phạm giới ấy.
* Đức Phật răn dạy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni giữ gìn thu thúc thân và khẩu như thế nào?
Đức Phật ban hành giới điều đến Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cốt để răn dạy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni biết giữ gìn thu thúc thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu. Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni giữ gìn điều giới được trong sạch, có thể diệt được phiền não loại thô (vitikkamakilesa), để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển.
Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật.
Tỳ-khưu giới
Đức Phật chế định, ban hành điều giới của Tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều giới như sau:
1) Điều giới Pārājika có 4 điều giới bất cộng trụ.
2) Điều giới Saṃghādisesa có 13 điều giới.
3) Điều giới Aniyata có 2 điều giới bất định.
4) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới ưng xả đối trị, trước phải xả bỏ vật bị phạm giới, sau mới xin sám hối (pācittiya āpatti).
5) Điều giới Suddha pācittiya có 92 điều giới ưng đối trị.
6) Điều giới Pāṭidesamāya có 4 điều giới sám hối riêng rẽ.
7) Điều giới Sekhiya có 75 điều học tập.
8) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp giảng hòa.
Trong giới bổn bhikkhupātimokkhasīla gồm có 227 điều giới, nếu tính theo Tạng Luật, thì điều giới của Tỳ-khưu tổng cộng 91.805.036.000 điều giới. Như trong bộ Visuddhimagga dạy:
“Navakoṭisahassāni,
Asitisatakoṭiyo.
Paññāsasatasahassāni,
Chattiṃsa ca punāpare.
Ete saṃvaravinayā,
Sambuddhena pakāsitā
Peyyālamukhena niddiṭṭhā,
Sikkhā vinayasaṃvare.”
Đức Phật đã chế định những điều giới trong Tạng Luật bằng cách hiểu rộng gồm có 91.805.036.000 điều giới, để giữ gìn thu thúc thân và khẩu tránh xa mọi hành ác.
Tỳ-khưu ni giới
Đức Phật chế định ban hành điều giới của Tỳ-khưu ni Bhikkhunipātimokkhasīla gồm có 311 điều giới như sau:
1) Điều giới Pārājika có 8 điều giới.
2) Điều giới Saṃghādisesa có 17 điều giới.
3) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới.
4) Điều giới Suddha pācittiya có 166 điều giới.
5) Điều giới Pāṭidesamāya có 8 điều giới.
6) Điều giới Sekhiya có 75 điều giới.
7) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.
Tên điều giới |
Tỳ-khưu giới |
Điều giới Pārājika |
4 điều giới |
Điều giới Saṃghādisesa |
13 điều giới |
Điều giới Aniyata |
2 điều giới |
Điều giới Nissaggiya pācittiya |
30 điều giới |
Điều giới Suddha pācittiya |
92 điều giới |
Điều giới Pāṭidesamāya. |
4 điều giới |
Điều giới Sekhiya |
75 điều giới |
Điều giới Adhikaraṇasamatha |
7 điều giới |
———————- |
|
Tổng cộng |
227 điều giới |
Tên điều giới |
Tỳ-khưu ni giới |
Điều giới Pārājika |
8 điều giới |
Điều giới Saṃghādisesa |
17 điều giới |
Điều giới Nissaggiya pācittiya |
30 điều giới |
Điều giới Suddha pācittiya |
166 điều giới |
Điều giới Pāṭidesamāya |
8 điều giới |
Điều giới Sekhiya |
75 điều giới |
Điều giới Adhikaraṇasamatha |
7 điều giới |
———————- |
|
Tổng cộng |
311 điều giới |
Phạm giới āpatti
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni phạm giới āpatti có 7 loại
1) Pārājika āpatti: Phạm giới bất cộng trụ, mất phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni.
2) Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới rồi phải xin chư Tăng hình phạt.
3) Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng kém thua hai giới trên.
4) Pācittiya āpatti: Phạm giới ưng đối trị.
5) Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới xin sám hối riêng rẽ.
6) Dukkaṭa āpatti: Phạm giới tác ác.
7) Dubbhāsita āpatti: Phạm giới ác khẩu.
Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính
1- Phạm giới āpatti nặng có 2 loại
Pārājika āpatti: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong những điều giới này; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy bị mất phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, họ phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành Sadi).
Saṃghādisesa āpatti: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong những điều giới này; Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy tuy còn phạm hạnh Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức Phật ban hành, hành Parivāsakamma, hành Mānattakamma và hành Abbhānakamma, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.
2- Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại
Thullaccaya āpatti, Pācittiya āpatti, Pāṭidesanīya āpatti, Dukkaṭa āpatti, Dubbhāsita āpatti. Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni nào phạm một trong 5 loại này, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni ấy có thể xin sám hối với một vị Tỳ-khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.
Quả báu của sự giữ gìn giới
Trong Tạng Luật bộ Parivāra, Đức Phật thuyết dạy quả báu của sự giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích theo nhân quả tuần tự như sau:
1) Giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích là có thu thúc lục căn thanh tịnh.
2) Có thu thúc, đem lại sự lợi ích là tâm không nóng nảy, tâm mát mẻ.
3) Tâm không nóng nảy, đem lại sự lợi ích là có tâm thỏa thích an vui.
4) Tâm thỏa thích an vui, đem lại sự lợi ích là có tâm hoan hỷ.
5) Tâm hoan hỷ, đem lại sự lợi ích là tâm vắng lặng thanh tịnh.
6) Tâm vắng lặng thanh tịnh, đem lại sự lợi ích là tâm an lạc.
7) Tâm an lạc, đem lại sự lợi ích cho thiền định.
8) Tâm thiền định, đem lại sự lợi ích có tri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp.
9) Tri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp, đem lại sự lợi ích cho tri kiến thiền tuệ, nhàm chán ngũ uẩn.
10) Tri kiến thiền tuệ nhàm chán ngũ uẩn, đem lại sự lợi ích diệt đoạn tuyệt được tham ái bằng Thánh Đạo Tuệ.
11) Diệt đoạn tuyệt được tham ái, đem lại sự lợi ích, giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ.
12) Giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ rồi, đem lại sự lợi ích cho trí tuệ quán xét biết rõ rằng giải thoát khổ rồi.
13) Trí tuệ quán xét biết rõ giải thoát khổ rồi, đem lại sự lợi ích chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ không còn chấp thủ.
Hành giả giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ, làm nền tảng đem lại nhiều sự lợi ích cho mọi thiện pháp, cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ, cho đến lợi ích cao thượng là chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
Quả báu của việc học Tạng Luật
Trong Tạng Luật bộ Pavivāra, Ngài Đại đức Upāli bạch hỏi Đức Thế Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật.
Đức Phật dạy rằng:
Này Upāli, Tỳ-khưu học Tạng Luật có được 5 quả báu là:
1) Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
2) Mình là nơi nương nhờ của những người khác, họ đến học hỏi để hiểu rõ giới luật.
3) Là người có thiện tâm dũng cảm trong các hội chúng.
4) Là người thắng kẻ thù bên trong là phiền não và kẻ thù bên ngoài bằng Chánh Pháp.
5) Là người hành theo Chánh Pháp, để duy trì Chánh Pháp được trường tồn.
Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật.
b) Tạng Kinh (Suttantapiṭaka)
Tạng Kinh là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ do Đức Phật thuyết giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ do chư Thánh Arahán, chư thiên, chư phạm thiên, Đức vua, Samôn, Bàlamôn. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì xem như lời thiện ngôn.
Tạng Kinh gồm có 5 bộ lớn
Trường Bộ Kinh: Gồm có những bài kinh dài.
Trung Bộ Kinh: Gồm có những bài kinh trung bình.
Đồng Loại Bộ Kinh: Gồm những bài kinh có điểm đồng nhau ghép thành nhóm.
Chi Bộ Kinh: Gồm những bài kinh có chi pháp rõ ràng.
Tiểu Bộ Kinh: Gồm những bài kinh, bài kệ không có trong 4 bộ trên, được gom vào Tiểu Bộ Kinh này.
Tạng Kinh có 3 đặc tính đặc biệt
– Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
– Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh (yathālomasāsana).
– Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt được tà kiến (diṭṭhiviniveṭhanakathā).
* Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?
Đức Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng sinh. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có nhiều hạng khác nhau như Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, Vua chúa, Bàlamôn, dân chúng, cho đến chư thiên, chư phạm thiên v.v… Mỗi khi chúng sinh lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, họ đều hiểu rõ ràng các chánh pháp bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng của mỗi chúng sinh. Do đó, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Arahán tùy theo khả năng pháp hạnh ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tạo. Cũng có số tạo duyên lành, bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật để chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả trong thời vị lai kiếp này, hoặc kiếp sau.
* Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh như thế nào?
Đức Phật có hai trí tuệ đặc biệt là:
– Indriyaparopariyattañāṇa: Trí tuệ biết rõ 5 pháp chủ già dặn hoặc non nớt của mỗi chúng sinh.
– Āsayānusayañāṇa: Trí tuệ biết rõ phiền não ngấm ngầm của mỗi chúng sinh.
Do đó, Đức Phật biết rõ được chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, hoặc không chứng đắc. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ phù hợp với căn cơ, duyên lành của chúng sinh ấy. Khi chúng sinh ấy lắng nghe chánh pháp của Đức Phật dễ dàng chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái. Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền cho thuốc tốt, nên bệnh nhân mau lành bệnh.
* Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt tà kiến như thế nào?
Đức Phật biết rõ mỗi chúng sinh có tà kiến khác nhau (có 62 loại tà kiến), Đức Phật thuyết dạy chúng sinh ấy phát sinh chánh kiến, nên diệt được tà kiến theo chấp ngã, các loại tà kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn một cách dễ dàng.
Đó là 3 đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.
c) Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
TạngVi Diệu Pháp gồm những Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) cao siêu vi diệu, là những pháp có thực tánh như: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp không phải thiện, không phải bất thiện… Những pháp ấy là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới… không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, đàn bà, chúng sinh….
Tạng Vi Diệu Pháp được Đức Phật thuyết tại cung trời Tam Thập Tam Thiên vào mùa hạ thứ 7 của Đức Phật, để tế độ Phật mẫu, nay kiếp hiện tại là thiên nam Santussita ở cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên. Vị thiên nam Santussita hiện xuống cõi trời Tam Thập Tam Thiên lắng nghe Đức Phật thuyết Tạng Vi Diệu Pháp này suốt 3 tháng hạ. Vị thiên nam Santussita chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng với 80 tỷ chư thiên, chư phạm thiên cũng chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả cao thấp tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi vị.
Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ:
1- Bộ Dhammassaṅganīpāḷi: Bộ Pháp Tụ Hội gồm tất cả các chân nghĩa pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā chia làm hai loại:
Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi pháp gồm có 32 mātikā.
Duka mātikā: Pháp đầu đề có hai chi pháp gồm có 100 mātikā…
2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp Phân Tích gồm các pháp phân tích thành 18 loại, uẩn (khandha), xứ (āyatana), giới (dhātu) v.v…
3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Phân Loai gồm các pháp phân loại thành ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, Tứ Đế (sacca).
4- Bộ Pugalapaññattipāḷi: Bộ Nhân Chế Định phân biệt các hạng người khác nhau.
5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Luận Đề đặt vấn đề phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh Pháp.
6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Song Đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau từng cặp.
7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Duyên Hệ giải về 24 duyên có quan hệ với nhau. Bộ Duyên Hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi diệu nhất trong Phật giáo.
Tạng Vi Diệu Pháp có 3 đặc tính đặc biệt
– Đức Phật thuyết giảng về Chân nghĩa pháp (Paramatthadesanā).
– Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã(yathādhammasāsana).
– Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp (nāmarāpaparicchedakathā).
* Đức Phật thuyết giảng về chân nghĩa pháp như thế nào?
Đức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị thông suốt tất cả các chân nghĩa pháp (paramatthadhamma) đó là tâm (citta), tâm sở (cetasika), sắc pháp (rūpa) và Niết Bàn (Nibbāna). Đức Phật Chánh Đẳng Giác đặc biệt có đầy đủ 5 pháp Ñeyyadhamma, nên Ngài có khả năng chế định ra ngôn ngữ chân nghĩa pháp, để thuyết dạy Tạng Vi Diệu Pháp này. Ngoài ra, không có một vị nào có khả năng thuyết giảng chân nghĩa pháp này, bởi vì họ không phải là Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
* Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã như thế nào?
Đức Phật biết rõ tà kiến theo chấp ngã của chúng sinh khác nhau.
– Số chúng sinh có tà kiến theo chấp danh pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp sắc pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp ngũ uẩn (khandha) là vô ngã. Bởi vì, trong ngũ uẩn có 4 danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh pháp là vô ngã, còn một sắc uẩn thuộc về sắc pháp cũng là vô ngã.
– Số chúng sinh có tà kiến theo chấp sắc pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp danh pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh này, Đức Phật thuyết pháp 12 xứ (āyatana) là vô ngã. Bởi vì, trong 12 xứ, có 10 xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc pháp là vô ngã. Còn lại ý xứ thuộc về danh pháp và một phần pháp xứ thuộc về danh pháp và sắc pháp là vô ngã.
– Số chúng sinh có tà kiến theo chấp danh pháp và sắc pháp tương đương cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp 18 giới (dhātu) là vô ngã. Bởi vì, trong 18 giới, có 10 giới: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc pháp là vô ngã. Còn lại 7 giới khác: nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới thuộc về danh pháp là vô ngã, riêng pháp xứ thuộc danh pháp và sắc pháp là vô ngã v.v… Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là vô ngã, không phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh …, để phá chấp ngã.
* Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp như thế nào?
Đức Phật thuyết giảng phân tích cho chúng sinh thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp, mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp có thực tánh pháp, có trạng thái riêng, có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để diệt tâm tà kiến thấy sai chấp lầm từ danh pháp, từ sắc pháp cho là tự ngã của ta; diệt tâm tham ái nơi danh pháp, sắc pháp cho là của ta, diệt tâm ngã mạn xem ta hơn người, bằng người, kém thua người…
Đó là đặc tính đặc biệt của Tạng Vi Diệu Pháp.
Quả báu của sự học Tam Tạng
– Người theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật, giữ gìn giới đức trong sạch và đầy đủ, do nhờ giới trong sạch làm nền tảng, nương nhờ giới tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam Minh, do năng lực quả báu của sự học Tạng Luật.
– Người học thông thuộc Tạng Kinh có giới thanh tịnh làm nền tảng, để tiến hành thiền định dẫn đến chứng đắc bát thiền, dùng bậc thiền làm nền tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối tượng, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Lục Thông, do năng lực quả báu của sự học Tạng Kinh.
– Người học thông thuộc Tạng Vi Diệu Pháp có giới định làm nền tảng, tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, do năng lực của sự học Tạng Vi Diệu Pháp.
Toàn giáo pháp của Đức Phật nếu phân chia theo bộ (nikāya), thì có 5 bộ gồm có 40 quyển căn cứ theo kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại động Kaba Aye, Yangon xứ Myanmar .
Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi)
Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāyapāḷi)
Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāyapāḷi)
Chi Bộ Kinh (Aṅguttaranikāyapāḷi)
Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāyapāḷi)
1- Trường Bộ Kinh là gì?
Trường Bộ Kinh gồm có 34 bài kinh dài chia làm 3 quyển:
Sīlakkhandhavaggapāḷi gồm có 13 bài kinh dài.
Mahāvaggapāḷi gồm có 10 bài kinh dài.
Pāthikavaggapāḷi gồm có 11 bài kinh dài.
2- Trung Bộ Kinh là gì?
Trung Bộ Kinh gồm có 152 bài kinh trung bình chia làm 3 quyển:
Mūlapaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình. Gồm có 50 bài kinh trung bình.
Majjhimapaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình. Gồm có 50 bài kinh trung bình.
Uparipaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, chương 1, 2, 3 và 5 mỗi chương có 10 bài kinh trung bình; còn chương 4 có 12 bài kinh trung bình. Gồm có 52 bài kinh trung bình.
3- Đồng Loại Bộ Kinh là gì?
Đồng Loại Bộ Kinh có 7.762 bài kinh dài, ngắn khác nhau. Đặc biệt bộ này những bài kinh có điểm đồng loại nhau, được ghép chung lại với nhau thành một chương riêng biệt.
Ví dụ: Những bài kinh liên quan đến chư thiên ghép chung lại với nhau thành nhóm gọi là devatasamyutta; những bài kinh liên quan đến Đức vua xứ Kosala ghép chung lại thành chương gọi là Kosalasamyutta v.v…
Bộ Đồng Loại Bộ Kinh này có 5 quyển:
Sagāthavaggasamyuttapāḷi gồm có 11 chương.
Nidānavaggasamyuttapāḷi gồm có 10 chương.
Khandhavaggasamyuttapāḷi gồm có 13 chương.
Sāḷāyatanasamyuttapāḷi gồm có 10 chương.
Mahāvaggasamyuttapāḷi gồm có 12 chương.
Như vậy, tổng cộng tất cả 56 chương gồm có 7.762 bài kinh.
4- Chi Bộ Kinh là gì?
Chi Bộ Kinh gồm có những bài kinh có chi pháp. Những bài kinh có một chi pháp, những bài kinh có hai chi pháp v.v… Cho đến những bài kinh có 11 chi pháp.
Những bài kinh có một chi pháp gọi là: ekakanipāta.
Những bài kinh có hai chi pháp gọi là: “dukanipāta v.v…”
Những bài kinh có mười một chi pháp gọi là: “ekadassakanipāta.”
Chi Bộ Kinh này có 3 quyển có 11 nipāta, gồm tất cả có 9.557 bài kinh ngắn dài khác nhau.
5- Tiểu Bộ Kinh là gì?
Tiểu Bộ Kinh, danh từ tiểu (khuddaka) không có nghĩa là nhỏ, mà tất cả những bài kinh nào, quyển nào không có trong bốn bộ kinh trên; những bài kinh ấy, những quyển ấy được gom vào trong Tiểu Bộ Kinh này. Cho nên, Tạng Luật và Tạng Vi Diệu Pháp thuộc về Tiểu Bộ Kinh này.
Như vậy, Tiểu Bộ Kinh gồm có:
Vinayapiṭakapāḷi (Tạng Luật).
Abhidhammapiṭakapāḷi (Tạng Vi Diệu Pháp).
Khuddakapāṭhapāḷi
Dhammapadagāthāpāḷi
Udānapāḷi
Itivuttakapāḷi
Suttanipātapāḷi
Vimānavatthupāḷi
Petavatthupāḷi
Theragāthāpāḷi
Therīgāthāpāḷi
Jātakapāḷi
Niddesapāḷi (Mahāniddesa-Cūlaniddesa)
Paṭisambhidāmaggapāḷi.
Apādānapāḷi
Buddhavaṃsapāḷi
Cariyāpiṭakapāḷi
Nettipāḷi
Petakopādesapāḷi
Milindapañhāpāḷi
Tiểu Bộ Kinh gồm có 2 tạng (Tạng Luật và Tạng Vi Diệu Pháp) và 18 quyển (bộ nhỏ). Bộ này rất rộng lớn.
Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo chi (aṅga), thì có 9 chi như sau:
1- Sutta (kinh): Gồm những bài kinh văn xuôi lẫn kệ, như kinh Maṅgalasutta, Ratanasutta… và Tạng Luật cũng được ghép vào chi sutta này.
2- Geyya (kệ): Gồm những bài kinh hoàn toàn bằng những câu kệ (không có đoạn văn xuôi) như những bài kệ trong phần Sagāthavaggasamyutta…
3- Veyyākaraṇa (kinh): Gồm những bài kinh hoàn toàn văn xuôi (không có kệ xen vào) như Dhammacakkappavattanasutta, Mahāsatipaṭṭhānasutta… và Tạng Vi Diệu Pháp cũng được ghép vào trong chi Veyyākaraṇa này.
4- Gāthā (kệ): Gồm những bài kệ không có tên bài kinh như Dhammapadagāthā, Theragāthā, Therīgāthā…
5- Udāna (bài tự thuyết): Gồm có 82 bài tự thuyết của Đức Phật do tâm hoan hỷ phát sinh.
6- Itivuttaka: Gồm có 110 bài kinh, thường bắt đầu có câu: Vuttam hetaṃ bhagavatā… Điều này đúng như lời Đức Thế Tôn dạy…
7- Jātaka (tiền kiếp): Những câu kệ liên quan đến 547 tích tiền kiếp của Đức Phật, bắt đầu tích Apannakajātaka và cuối cùng tích Vessantarajātaka.
8- Abbhūtadhamma: Gồm những bài kinh có pháp phi thường chưa từng có từ trước (acchariyabhūtadhamma), thường khởi đầu bằng câu: Này chư Tỳ-khưu, những pháp phi thường chưa từng có từ trước… như bài kinh Pahāradasutta…
9- Vedalla: Gồm những bài kinh vấn đáp bằng trí tuệ hợp với hỷ như Cūlavedallasutta, Mahāvedallasutta, Sakkapānhāsutta…
84.000 PHÁP MÔN (DHAMMAKKHANDHA)
Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia thành pháp môn (Dhammakkhandha) thì có 84.000 pháp môn, trong bộ Tam Tạng như sau:
Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn.
Tạng Kinh gồm có 21.000 pháp môn.
Tạng Vi Diệu Phápgồm có 42. 000 pháp môn.
Phương pháp đếm pháp môn trong Tam Tạng
– Trong Tạng Luật: Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để Đức Phật chế định điều giới, ban hành giới đến chư Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni là một pháp môn. Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới v.v… mỗi điều là một pháp môn v.v…
Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn.
– Trong Tạng Kinh: Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là một pháp môn. Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ là một pháp môn, mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp môn v.v…
Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp môn.
– Trong Tạng Vi Diệu Pháp: Pháp phân chia mỗi tika, mỗi duka là một pháp môn, phân loại tâm và tâm sở đồng sinh là một pháp môn v.v…
Như vậy, trong Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 42.000 pháp môn.
Trong 84.000 pháp môn này, Đức Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp môn, còn 2.000 pháp môn do chư bậc Thánh Arahán thuyết dạy.
Như Ngài Đại đức Ānanda, bậc Thủ kho Tàng Pháp Bảo dạy rằng:
“Dvāsiti Buddhato gaṇhiṃ
Dve sahassāni bhikkhuto
Caturāsitisahassāni
Ye me dhammā pavattino” .Tôi là Ānanda
Đã học từ Kim ngôn Đức Phật
Được tám mươi hai ngàn pháp môn,
Học từ chư Thánh A-ra-hán
Góp nhặt được hai ngàn pháp môn,
Tôi là Thủ kho Tàng pháp Bảo
Trọn tám mươi bốn ngàn pháp môn.
Pháp học Phật giáo là nguồn cội, là căn bản của Phật giáo. Khi pháp học còn tồn tại, thì pháp hành mới mong phát triển. Khi pháp hành phát triển tốt, thì pháp thành mới có thể phát sinh. Nếu pháp học bị tiêu hoại, thì pháp hành và pháp thành chắc chắn sẽ không còn nữa. Như vậy, các hàng Phật tử tại gia và bậc xuất gia cần phải có bổn phận theo học pháp học Phật giáo bằng tiếng Pāḷi, lời giáo huấn chính thức của Đức Phật tùy theo khả năng của mình, để giữ gìn duy trì Phật giáo được trường tồn trên thế gian tròn đủ 5.000 năm. Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.
Sách Tỳ Khưu Hộ Pháp – Bộ Nền Tảng Phật Giáo