Ngũ-Giới Là Thường-Giới (Pañcasīla Niccasīla)
* Ngũ-giới (pañcasīla) là thường-giới (nicca- sīla) chung của tất cả mọi người trong đời, không ngoại trừ một ai cả, không phân biệt già trẻ, trai gái, dân tộc. Tất cả mọi người đều phải có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, bất luận là người có thọ-trì ngũ-giới hoặc không thọ-trì ngũ-giới, cũng đều phải có bổn phận giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, bởi vì ngũ-giới là thường-giới của tất cả mọi người trong đời.
* Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì người ấy tạo được phước-thiện giữ giới, nên đại-thiện-nghiệp giữ giới ấy có cơ-hội cho quả tốt, quả an-lạc, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
* Nếu người nào phạm một điều-giới nào trong ngũ-giới thì người ấy đã tạo ác-nghiệpđiều-giới ấy, có cơ-hội cho quả xấu, quả khổ, đem lại sự bất lợi, sự thoái hoá, sự khổ não trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
5 quả-báu của người giữ gìn giới
Người giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn có được 5 quả-báu là:
1- Người ấy có nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi (có trí-nhớ biết mình).
2- Người ấy có danh thơm tiếng tốt được lan truyền khắp mọi nơi.
3- Người ấy có đại-thiện-tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi các hội đoàn.
4- Người ấy có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung.
5- Người ấy sau khi chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới (cõi người, 6 cõi trời dục-giới) hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.
Đó là 5 quả-báu của người giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.
5 quả-xấu, quả khổ của người phạm giới
Người phạm giới của mình, không có giới có 5 quả xấu, quả khổ là:
1- Người ấy làm tiêu hao của cải tài sản lớn lao, do nhân dể duôi.
2- Người ấy có tiếng xấu bị lan truyền khắp mọi nơi.
3- Người ấy có ác-tâm e ngại, sợ sệt khi đi vào nơi các hội đoàn.
4- Người ấy có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.
5- Người ấy sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.
Đó là 5 quả xấu, quả khổ của người phạm giới của mình, người không có giới.
Như vậy, quả báu tốt lành của người giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn có 5 điều, mà quả-báu thứ 4 và quả-báu thứ 5 là:
– Người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung.
– Người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn, sau khi chết, đại–thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới (cõi người, cõi 6 trời dục giới), hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.
* Quả xấu, quả khổ của người phạm giới của mình có 5 điều, mà quả-khổ thứ 4 và quả-khổ thứ 5 là:
– Người phạm giới, không có giới có ác-tâm mê muội lúc lâm chung.
– Người phạm giới, không có giới sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi 4 ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.
Như vậy, sự thật mỗi người sinh ra trong đời này, chắc chắn tiền-kiếp của người ấy có ít nhất là ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.
Thật vậy, nếu tiền-kiếp của người phạm giới của mình, không có giới thì làm sao tái-sinh đầu thai làm người trong cõi người này được?
Cho nên, tất cả mọi người đã sinh làm người đều vốn có ít nhất là ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.
Kiếp hiện-tại người có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, đó là người biết tự trọng, biết giữ gìn nhân phẩm quý báu vốn có trong con người của mình từ khi đầu thai làm người.
Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nhận thức rõ được 5 quả-báu của người có giới trong sạch và trọn vẹn, và 5 quả khổ của người phạm giới, không có giới như vậy.
Cho nên, những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khi thọ phép quy-y Tam-bảo cùng với thọ-trì ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, và khuyến khích, tác động những người khác cũng nên giữ gìn ngũ-giới của họ cho được trong sạch trọn vẹn, tạo phước-thiện giữ giới, là tạo đại-thiện-nghiệp giữ giới, có cơ-hội cho quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Nghi Thức Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ-Trì Ngũ-Giới
Theo truyền thống Phật-giáo Theravāda, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.
Trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ xin làm lễ xin sám hối Tam-bảo:sám hối Đức-Phật-bảo, sám hối Đức-Pháp-bảo, sám hối Đức-Tăng-bảo, v.v…
Lễ Sám Hối Tam-Bảo
* Lễ Sám Hối Đức-Phật-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso,
buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Lễ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso,
dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp học và pháp hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Lễ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ,
saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso,
saṃgho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
Bài Kệ Cầu Nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu. Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này, cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt. Mong chứng đắc Thánh-đạo,Thánh-quả Niết-bàn, Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới
Ahaṃ([1]) Bhante, tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi([2]), anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me.([3])Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
Nghĩa:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con. Bạch Ngài.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
Đảnh Lễ Đức-Phật
Ngài Trưởng-lão hướng dẫn đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rằng:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo
Sau khi đảnh lễ Đức-Phật xong, Ngài Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo:
– Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
– Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
– Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
– Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
– Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
– Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
– Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
– Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
– Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
NTL(1): Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN : Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng! Kính bạch Ngài).
Thọ-Trì Ngũ-Giới
Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ-trì ngũ-giới:
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự tà-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối.
5- Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇisikkhapadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ-trì điều-giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
NTL:Tisaraṇena saha pañcasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādehi (sampādetha).([4])
(Phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới xong rồi, con (các con) nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch trọn vẹn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh).
CSN: Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).
NTL: Sīlena sugatiṃ yanti,
sīlena bhogasampadā.
Sīlena nibbutiṃ yanti,
tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới.
Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.
Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới.
Vậy, các con giữ giới, cho được trong sạch!
CSN: Sādhu! Sādhu!
(Lành thay! Lành thay!).
Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:
Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Phật nơi nương nhờ cao-thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao-thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Pháp nơi nương nhờ cao-thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao-thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Đức-Tăng nơi nương nhờ cao-thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao-thượng.
Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới của người cận-sự-nam, người cận-sự-nữ.