Giảng giải: trọng-yếu-ác-nghiệp có 2 loại ác-nghiệp:
1.1- Niyatamicchādiṭṭhikamma:Ác-nghiệp tà-kiến cố-
định có 3 loại tà-kiến cố-định:
1- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến.
2- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến.
3- Akiriyādiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến.
1- Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp.” có nghĩa là không tin ác-nghiệp cũng không tin thiện-nghiệp nào cả.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc thiện-nghiệp rồi đều không có quả khổ của ác-nghiệp hoặc không có quả an-lạc của thiện-nghiệp.
Tất cả chúng sinh chết rồi là hết, trở thành “số không” không có kiếp sau.”
Người có vô quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn-
kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta ([1])vị Đạo-sư ngoại đạo Ajitakesakambala có tà thuyết Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “ Không có quả của nghiệp” như sau:
1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện bố thí không có quả tốt, an lạc.
2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường lớn không có quả tốt, an lạc.
3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường nhỏ, đón rước, cũng không có quả tốt, an lạc.
4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, không có quả an lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.
5- Natthi ayaṃ loko:Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi này nghĩa là không có chúng sinh tái sinh đến cõi này.
6- Natthi paro loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi khác nghĩa là chúng sinh chết rồi là hết, không có tái sinh kiếp sau trong cõi khác.
7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với mẹ, không có quả tốt, quả xấu.
8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước,
làm tội đối với cha, không có quả tốt, quả xấu.
9- Natthi sattā opapātikā: Tà-kiến thấy sai rằng:
Không có các loài chúng sinh hóa sinh to lớn ngay tức thì, như chư thiên cõi dục giới, chư phạm thiên cõi sắc giới, chúng sinh địa ngục, loài ngạ quỷ, loài a-tu-la.
10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammā-
paṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchiktvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp hành thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới, các bậc thiền vô sắc, chứng đắc các phép thần thông; thực-hành pháp hành thiền tuệ, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả, Niết Bàn, thấy rõ biết rõ thế giới này, thế giới khác.
Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của thiện-nghiệp, quả của ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân là thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
1.2- Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp.”
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ-trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác-nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ-trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp.”
Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện-nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời kỳ được trong sạch thanh tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy.”
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta ([2]) vị Đạo-sư ngoại-đạo Makkhaligosāla có tà thuyết Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp.” như sau:
– Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
– Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng sinh được trong sạch thanh tịnh. Tất cả chúng sinh được trong sạch thanh tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
– Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.
– Tất cả chúng sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy.”
Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nghiệp và quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
1.3- Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến cố-định là tà-kiến
thấy sai chấp lầm không thay đổi rằng: “Không có hành
ác, không có hành thiện.”
Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi. không có hành ác, không có hành thiện.
Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị Đạo-sư
ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện ” như sau:
– Tự mình hành ác, sai khiến hành ác đều không có hành ác như:
– Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.
– Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp đều không có hành ác trộm-cắp. v.v….
– Tự mình bố thí, sai khiến người khác bố thí đều không có hành thiện bố thí.
– Tự mình cúng dường, sai khiến người khác cúng dường đều không có hành thiện cúng dường. v.v….
Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, ác-nghiệp.
Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn ngũ vô-gián ác-nghiệp trọng-tội là giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên không biết ăn năn sám hối những tội lỗi của mình.
Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp tà-kiến cố-định là ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định này cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, khó mà thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục này.
1.2- Pañcānantariyakamma: Ngũ vô-gián ác-nghiệp trọng-tội có 5 loại ác-nghiệp:
1- Ác-nghiệp giết cha.
2- Ác-nghiệp giết mẹ.
3- Ác-nghiệp giết bậc Thánh Arahán.
4- Ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.
5- Ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng.
5 ác-nghiệp này gọi là 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, bởi vì người nào đã tạo 1 trong 5 ác-nghiệp này, sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp trọng-tội cực kỳ nặng này mới có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi, không có nghiệp nào khác có khả năng ngăn cản được, nghĩa là kiếp-hiện-tại sau khi chết, ác-nghiệp trọng-tội này liền cho quả tái-sinh kiếp kiếp-kế-tiếp ngay không có gián đoạn.
Vì vậy, ác-nghiệp này gọi là 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Tính-Chất Của 5 Ác-nghiệp Vô-gián Trọng-Tội
Giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh-A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, chia rẽ tỳ-khưu-Tăng đó là 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Nếu người phạm 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội này thì người ấy sau khi chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci mà thôi.
Vì vậy, 5 ác-nghiệp cực ác này, gọi là ngũ vô-gián ác-nghiệp trọng-tội (pañcānantariyakamma).
Người phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội không hẳn
là người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định, mà chỉ là người hành động do năng-lực của sân-tâm, chắc chắn có si-tâm trong khi hành ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy.
Nếu người ấy không phải là người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định thì sau khi đã phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, rồi người ấy biết ăn năn hối lỗi, biết sám hối tội lỗi của mình.
Từ đó, người ấy từ bỏ mọi ác-nghiệp, mà chỉ cố gắng tinh-tấn tạo mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp mà thôi. Dù trước khi phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, người ấy đã chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào rồi, sau khi phạm, bậc thiền sắc-giới ấy chắc chắn bị mất.
Sau đó, dù người ấy có thực-hành pháp-hành thiền-định, thì chắc chắn cũng không thể chứng đắc bậc thiền nào cả, dù có thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì chắc chắn cũng không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào được, bởi vì, người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội có quyền ưu tiên, có cơ-hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp trọng-tội ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp trọng-tội ấy, mới mong thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục ấy được.
Sau khi thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục ấy, do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trở lại làm người, người ấy có thể tạo được mọi thiện-nghiệp được và hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp được.
* Như trường hợp tỳ-khưu Devadatta trước đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, đã chứng đắc phép-thần-thông. Sau khi tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, đó là ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu Tăng và ác-nghiệp làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật, nên các bậc thiền
sắc-giới đều bị mất. Khi bị lâm bệnh nặng, trước lúc chết tỳ-khưu Devadatta nằm trên giường, bảo nhóm đệ tử khiêng tỳ-khưu đến ngôi chùa Jetavana để hầu đảnh lễ sám hối Đức-Phật, và kính xin nương nhờ nơi Đức-Phật.
Đến ngôi chùa Jetavana, nhóm đệ tử đặt cái giường xuống nghỉ cạnh cái hồ để tắm rửa tỳ-khưu Devadatta cho sạch sẽ trước khi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật.
Tỳ-khưu Devadatta vừa bước xuống giường, đôi bàn chân vừa chạm mặt đất, ngay khi ấy mặt đất nứt ra làm đôi, rồi hút tỳ-khưu Devadatta vào trong lòng đất. Tỳ-khưu Devadatta liền chắp hai tay đưa lên quá đầu xin sám hối Đức-Thế-Tôn, và kính xin nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn.
Tỳ-khưu Devadatta sau khi chết, chính ác-nghiệp vô-gián chia rẽ tỳ-khưu-Tăng ấy có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa- ngục Avīci, chịu hành-hạ thiêu đốt suốt 100 ngàn đại- kiếp trái đất.
Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:
“Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu Đức-Phật Độc- Giác Aṭṭhissara.”(1)
* Trường hợp Đức-vua Ajātasattu đã nghe lời khuyên dụ của tỳ-khưu Devadatta, Đức-vua đã giết Phụ-hoàng Bimbisāra. Khi nghe tin tỳ-khưu Devadatta bị hút sâu vào trong lòng đất, Đức-vua Ajātasattu phát sinh tâm hoảng sợ, biết ăn năn hối lỗi.
Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-
Tôn, rồi xin sám hối nơi Đức-Thế-Tôn về tội giết Vua cha của mình. Đức-Thế-Tôn chứng minh lời sám hối của Đức-vua xong, rồi Đức-Phật thuyết pháp tế độ Đức-vua.
Nếu Đức-vua Ajātasattu không phạm ác-nghiệp vô-gián giết Đức-Phụ-vương thì sau khi nghe Đức-Phật thuyết-pháp, Đức-vua có khả năng trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu ngay tại nơi ấy. Nhưng Đức-vua đã phạm ác-nghiệp vô-gián giết cha, cho nên không thể trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu. Đức-vua kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành người cận-sự-nam trong giáo pháp của Đức-Phật.
Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu có đức tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, hết lòng phụng sự cúng dường Tam-bảo.
Thật vậy, Đức-vua Ajātasattu đã hộ độ 500 bậc Thánh-
A-ra-hán có Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong kỳ kết tập Tam-tạng pāḷi và Chú-giải pāḷi lần thứ nhất tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha, suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng pāḷi và Chú-giải pāḷi, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn khoảng 3 tháng 4 ngày.
Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam có đức tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, hộ độ chư tỳ-khưu-Tăng cho đến trọn đời.
Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, đáng lẽ ra ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (giết cha) cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt suốt nhiều đại-kiếp trái đất, nhưng nhờ đã biết ăn năn hối lỗi, Đức-vua đã ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin sám hối những tội lỗi của mình, lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp, rồi phát sinh đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, trở thành người cận-sự-nam trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu có đức tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, cố gắng tinh-tấn tạo mọi phước-thiện, hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời.
Chính nhờ mọi đại-thiện-nghiệp ấy làm giảm bớt tiềm năng cho quả tái-sinh của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (giết cha), thay vì phải tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, thì tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi tiểu–địa-ngục nồi đồng sôi Lohakumbhī, chịu quả khổ trong địa ngục nhỏ nồi đồng sôi suốt 60.000 năm.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
“Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (giết Đức-Phụ-vương) cho quả tái-sinh trong cõi tiểu-địa-ngục nồi đồng sôi, từ miệng nồi chìm xuống đến đáy nồi suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi suốt 30.000 năm, mới mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy. Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trở lại làm người, hậu kiếp của Đức-vua Ajātasattu xuất gia sẽ trở thành Đức-Phật Độc- Giác có danh hiệu: Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī.”([3])
Như vậy, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội tuy là trọng-tội chắc chắn sẽ cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có khả năng ngăn cản được, nhưng còn có thời gian mãn hạn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, rồi đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm người.
Kiếp người ấy có khả năng tạo mọi thiện-nghiệp theo khả năng của mình, từ dục-giới đại-thiện-nghiệp, sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp, cho đến siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.
Còn ác-nghiệp tà-kiến cố-định cũng chắc chắn sẽ cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng khó có thời gian mãn hạn quả của ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy.
Vì vậy, ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Thật vậy, trường hợp tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là người con trai duy nhất chí hiếu đối với cha mẹ bị mù đôi mắt. Hằng ngày, sáng sớm người con lo cơm nước cho cha mẹ ăn, giặt giũ quần áo, v.v…. xong mọi công việc trong nhà, rồi mới đi ra ngoài lo công việc đồng áng.
Chiều về, người con lo tắm rửa cho cha mẹ,… Cha mẹ thấy con vất vả như vậy, nên muốn tìm cho con một người vợ để lo giúp đỡ công việc trong nhà, nhưng người con trai một mực từ chối. Cha mẹ cứ khuyên dạy như vậy nhiều lần, nếu không vâng lời cha mẹ, thì sợ cha mẹ sẽ buồn, cho nên bất đắc dĩ, người con phải chịu lấy vợ cho cha mẹ vui.
Người vợ lo phục vụ cho cha mẹ chồng được một thời gian ngắn, sau đó, nàng bịa đặt chuyện nói xấu cha mẹ chồng. Người vợ than vãn với người chồng rằng:
– Này anh yêu quý! Em chịu đựng không nổi với cha mẹ anh. Em không thể sống chung cùng với cha mẹ của anh được nữa….
Mặc dù người chồng khuyên lơn, năn nỉ vợ, nhưng người vợ vẫn khăng khăng cự tuyệt không chịu sống
chung với cha mẹ của mình.
Đế chiều theo ý vợ, người con thưa với cha mẹ rằng:
– Kính thưa cha mẹ, từ lâu rồi, cha mẹ chưa đi thăm
người bà con ở xóm bên kia, xin cha mẹ lên ngồi trên chiếc xe bò, con sẽ đưa cha mẹ đến thăm người bà con bên ấy.
Hai ông bà mù tin lời của người con lên xe, người con đưa cha mẹ đến khu rừng, rồi thưa với cha mẹ rằng:
– Kính thưa cha mẹ, khoảng khu rừng này thường có nhiều bọn cướp đón đường cướp của giết người, xin cha mẹ ngồi trên xe để con xuống đi thăm dò đường.
Người con xuống xe, một lát sau quay trở lại giả làm bọn cướp đến đánh đập cha mẹ già mù đến chết, rồi bỏ xác ở trong rừng.
Người con phạm ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết cha, giết mẹ. Người con sau khi chết, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ, giết cha ấy cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ bị thiêu đốt suốt nhiều đại-kiếp trái đất trong cõi đại-địa-ngục, rồi từ cõi đại-địa-ngục này sang các cõi tiểu-địa-ngục kia, cho đến khi mãn quả ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.
Đến thời gian mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nhờ đại-thiện-nghiệp đã được tạo trong những kiếp-quá-khứ cho quả tái-sinh trở lại làm người.
Người con trai đánh đập mẹ cha già đui mù ấy chính là tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.
Về sau, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão đã tạo mọi đại-thiện-nghiệp đó là 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái
đất, được Đức-Phật Anomadassī thọ ký.
Đến kiếp chót là tu-sĩ ngoại-đạo Kolita, sau đó xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama, có tên gọi theo dòng dõi là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ- Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cùng với tứ-tuệ phân-tích, lục-thông đặc biệt.
Một hôm, giữa nơi đại-hội chư Thánh-Tăng, Đức-Phật Gotama tuyên dương rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Tỳ-khưu Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử có đức-hạnh xuất sắc nhất về phép-thần-thông trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Như-lai.
* Nhận xét về tích Tỳ-khưu Devadatta và tích Đức-vua
Ajātasattu
Tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu đều đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giống nhau, nhưng mỗi người sau khi chết, do nhân nào mà ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-
ngục khác nhau?
* Tỳ-khưu Devadatta
Tỳ-khưu Devadatta đã tạo 2 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật. Đó là 2 loại ác-nghiệp vô-gián trọng-tội nặng thứ nhất và thứ nhì.
Đến khi bị lâm bệnh nặng gần chết, tỳ-khưu Devadatta
mới biết ăn năn hối lỗi, muốn đến ngôi chùa Jetavana, để đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin sám hối tội lỗi của mình, trước khi chết.
Tỳ-khưu Devadatta đến ngôi chùa Jetavana, nhưng chưa đến hầu Đức-Thế-Tôn, thì mặt đất nứt ra làm 2 ngọn lửa lên hút tỳ-khưu Devadatta vào trong lòng đất. Khi ấy, tỳ-khưu Devadatta còn kịp thốt lên một bài kệ:
“Imehi aṭṭhīhi tamaggapuggalaṃ,
Devātidevaṃ naradammasārathiṃ.
Samantacakkhuṃ satapuññalakkhanaṃ,
Pāṇehi Buddhaṃ saraṇaṃ upemi”(1)
Phút cuối cùng con hết lòng thành kính,
Xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật,
Là Bậc Vô-Thượng nhất trong nhân loại,
Bậc Phạm-thiên cao nhất trong Phạm-thiên,
Bậc Vô-Thượng giáo hóa mọi chúng-sinh,
Bậc có tuệ nhãn toàn tri tuyệt vời,
Bậc có đầy đủ hằng trăm phước tướng.
Con thành kính cúng dường bằng sinh mạng,
Bằng bộ xương gầy còn lại của con.
Thốt xong bài kệ tán dương ân-Đức-Phật với tấm lòng tôn kính sâu sắc và xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật xong, cùng trong lúc ấy, tỳ-khưu Devadatta bị hút sâu vào lòng đất.
Do nhờ đại-thiện-tâm trong sạch xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật trong lúc lâm chung ấy, tuy ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
Sau khi mãn hạn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, trong thời vị lai, nhờ đại-thiện-nghiệp 20 pháp-hạnh ba-la-mật đã từng tích lũy trải qua 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trong những kiếp-quá-khứ sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, trong thời-kỳ không có Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian và cũng không có giáo-pháp của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
Hậu kiếp của tỳ-khưu Devadatta sẽ xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là“Đức-Phật Độc-Giác Aṭṭhissara,” rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. (theo Đức-Phật Gotama thọ ký).
* Đức-vua Ajātasattu
Trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, thì Đức-vua Ajātasattu đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết Đức Phụ-vương (Đức-vua Bimbisāra là bậc Thánh-Nhập-lưu) đó là 1 trong 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Khi nghe tin tỳ-khưu Devadatta bị đất hút chết, Đức- vua Ajātasattu phát sinh tâm kinh hãi vô cùng, biết ăn năn hối lỗi, ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, xin thành tâm sám hối những tội lỗi lớn lao của mình.
Đức-Phật chứng minh sự sám hối tội lỗi của Đức-vua Ajātasattu, rồi thuyết pháp tế độ Đức-vua. Nhưng vì ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ngăn cản, nên Đức-vua không thể trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, mà chỉ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam-bảo, Đức-vua xin thọ phép quy y Tam-bảo, trở thành người cận-sự-nam trong giáo pháp của Đức-Phật, rồi phụng sự Tam-bảo cho đến trọn đời.
Đức-vua Ajātasattu đã hộ độ 500 vị Thánh-A-ra-hán, trong kỳ kết tập Tam-tạng pāḷi và Chú-giải pāḷi lần thứ nhất, do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì, tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha xứ Magadha, suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng pāḷi và Chú-giải pāḷi, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn được 3 tháng 4 ngày. Đó là phần phước-thiện lớn thanh cao của Đức-vua Ajātasattu.
Đức-vua Ajātasattu là người có đức tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, hết lòng phụng sự Tam-bảo cho đến trọn đời.
Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ đại-thiện-nghiệp làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nên cho quả tái-sinh trong cõi tiểu- địa-ngục gọi là Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi), phải chịu quả khổ trong khoảng thời gian 60.000 năm.
Sau khi mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, do nhờ đại-thiện-nghiệp 20 pháp-hạnh ba-la-mật đã tích lũy từ vô số kiếp-quá-khứ, cho quả tái-sinh làm người trong thời-kỳ không có Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.
Hậu kiếp của Đức-vua Ajātasattu sẽ xuất gia, rồi trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Như vậy, tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu cùng tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, nhưng tính chất ác-nghiệp vô-gián trọng-tội của mỗi người khác nhau, thời gian biết ăn năn sám hối tội lỗi, thời gian tạo đại-thiện-nghiệp khác nhau, cho nên ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi địa-ngục khác nhau, chịu quả của ác-nghiệp ấy với thời gian khác nhau như vậy.
* Điều chúng ta nên suy ngẫm về tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu, hai vị vốn là người đã từng tích lũy 20 pháp-hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp-quá-khứ.
Ngay kiếp-hiện-tại, từ khi tái-sinh tỳ-khưu Devadatta là hạng người có tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si), bởi vì tỳ-khưu Devadatta đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, và chứng đắc phép thần-thông.
Đức-vua Ajātasattu vốn là hạng người có tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) có khả năng trở thành bậc Thánh-nhân trong kiếp-hiện-tại, nhưng không trở thành bậc Thánh-nhân, bởi vì Đức-vua đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội làm ngăn cản Thánh-đạo, Thánh-quả.
Hai người vốn có trí-tuệ như vậy, nhưng họ vẫn bị phiền-não chi phối, sai khiến tạo ác-nghiệp như vậy.
Tỳ-khưu Devadatta và Đức-vua Ajātasattu sau khi chết, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong cõi địa-ngục.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, hậu kiếp của hai vị đã được Đức-Phật thọ ký xác định trong kiếp vị-lai, chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác, rồi tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đó là điều chắc chắn.
Còn những hạng phàm-nhân như mỗi người trong chúng ta, trong vòng tử sinh luân hồi từ vô thủy không biết, và kiếp cuối cùng cũng chưa biết được.
Vậy có ai dám chắc rằng: “Ta sẽ là người không có ác-nghiệp tà-kiến cố-định, hoặc không tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội trong những kiếp vị-lai hay không???
Đó là điều nên suy ngẫm!
Vấn: Nếu một người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định và đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội thì ác-nghiệp nào sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci?
Đáp: Nếu một người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định và đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, thì chỉ có ác-nghiệp tà-kiến cố-định mới có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà thôi, bởi vì, ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng hơn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.
Tuy ác-nghiệp vô-gián trọng-tội không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng ác-nghiệp vô-gián trọng-tội trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận-sự hỗ-trợ cho quả của ác-nghiệp tà-kiến cố-định nặng thêm gấp bội phần.
Vấn: Nếu một người đã phạm đủ 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, thì ác-nghiệp nào sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci?
Đáp: Nếu một người đã phạm đủ 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, thì chắc chắn ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu- Tăng([4]) sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn lại 4 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội trở thành ác-nghiệp hỗ-trợ cho quả của ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng càng nặng thêm gấp bội phần.
* Trường hợp phạm 3 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là giết bậc Thánh Arahán, giết mẹ, giết cha, thì chắc chắn ác-nghiệp giết bậc Thánh Arahán sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn lại 2 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận-sự hỗ-trợ cho quả của ác-nghiệp giết bậc Thánh Arahán càng nặng thêm.
* Trường hợp phạm 2 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội là
giết mẹ, giết cha.
– Nếu người mẹ có giới đức, còn người cha không có giới đức, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận-sự hỗ-trợ cho quả của ác-nghiệp giết mẹ càng nặng thêm.
– Nếu người cha có giới đức, còn người mẹ không có giới đức, thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết cha sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận-sự hỗ-trợ cho quả của ác-nghiệp giết cha càng nặng thêm.
– Nếu cả người mẹ và người cha đều có giới đức, hoặc đều không có giới đức, thì ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết mẹ sẽ có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Còn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết cha trở thành hỗ-trợ-nghiệp có phận-sự hỗ-trợ quả của ác-nghiệp
vô-gián giết mẹ càng nặng thêm.
Vấn: Tại sao ác-nghiệp tà-kiến cố-định có tội nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ?
Đáp: Ác-nghiệp tà-kiến cố-định có tội nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, bởi vì người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định là người hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp.
Do không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên họ có thể tạo mọi ác-nghiệp mà không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê sợ tội-lỗi, không biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình. Cho nên, họ vẫn tiếp tục tạo mọi ác-nghiệp.
Còn người đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội do năng-lực phiền-não. Về sau, họ biết hổ thẹn tội-lỗi, biết ghê sợ tội-lỗi, biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình, bởi vì họ có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, nên họ cố gắng tinh-tấn tạo mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp cho đến hết tuổi thọ.
Người ấy sau khi chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp-kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci. Đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, thoát ra khỏi cõi địa-ngục, rồi đại-thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới,v.v….
[1] Dī. Sīlakkhandhavagga, K Sāmaññaphalasutta
[2] Dī. Sīlakkhandhavagga, K Sāmaññaphalasutta
1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Devadattavatthu.
[3] Bộ chú-giải Dī. Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā.
1 Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā tích Devadattavatthu.
[4] Ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng này, chỉ có tỳ-khưu tạo được mà thôi. Còn sa-di, cận-sự-nam, cận-sự-nữ không thể tạo ác-nghiệp này được.