Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức Phật-Bảo (Buddhānussati)
9 ân-đức Phật-bảo là đối-tượng của đề-mục niệm- niệm ân-đức Phật-bảo. Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là 1 trong 10 đề-mục niệm-niệm (anussati) cũng là 1 trong 40 đề-mục thiền-định.
Muốn thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật- bảo, trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi cho hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Phật-bảo kỹ càng từng các chi pháp về phần pháp-học.
Phần pháp-hành, trước khi thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo, hành-giả nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo.
– Nếu là cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ thì nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát giới, cửu giới, …
– Nếu là vị Sa-di thì nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và Sa-di thập giới với vị Thầy tế độ hoặc với một vị Đại-đức.
– Nếu là vị tỳ-khưu thì nên xin sám hối āpatti với một vị tỳ-khưu khác.
Như vậy, hành-giả là người có giới thuộc về phần pháp-hành giới làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo.
Phương Pháp Niệm-Niệm Ân-Đức Phật-Bảo
9 ân-đức này chỉ có nơi Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác mà thôi. Ngoài Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác ra, không có Đức-Phật Độc-Giác, một Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, chư phạm-thiên nào có đầy đủ 9 ân-đức này. Vì vậy, gọi là 9 ân-đức Phật-bảo.
Chư Phật trong quá khứ, Đức-Phật trong hiện-tại, Chư Phật trong vị-lai đều có đầy đủ 9 ân-đức này.
Để dễ liên tưởng đến 9 ân-đức Phật-bảo, hành-giả nên ngồi trước tượng Đức-Phật hoặc trước ngôi Bảo- tháp nơi tôn thờ Xá-lợi của Đức-Phật, hoặc tại cội Đại- Bồ-đề nơi Đức-Bồ-Tát chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc một nơi thanh vắng, để thuận lợi thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo. Niệm 9 ân-đức Phật-bảo có nhiều cách:
– Cách thứ nhất (phổ thông): Niệm trọn vẹn 9 ân-đức Phật-bảo.
Hành-giả thực-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo như sau:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasārat hi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā”, …
Hành-giả thực-hành tâm niệm đến ân-đức Phật-bảo nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Phật- bảo ấy, định-tâm theo dõi mỗi ân-đức Phật-bảo như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, … trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo.
– Cách thứ nhì: Niệm một câu ân-đức Phật-bảo.
Hành-giả có thể chọn một câu ân-đức Phật-bảo nào trong 9 ân-đức Phật-bảo làm đối-tượng, để thực-hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Phật-bảo ấy, luôn luôn định-tâm nơi ân-đức Phật-bảo ấy.
Ví dụ: Niệm ân-đức Phật-bảo thứ nhất Itipi so Bhagavā Arahaṃ, … Itipi so Bhagavā Arahaṃ, …
Hoặc: Niệm ân-đức Phật-bảo thứ tám Itipi so Bhagavā Buddho, … Itipi so Bhagavā Buddho, …
Hoặc: Niệm ân-đức Phật-bảo thứ chín Itipi so Bhagavā Bhagavā, … Itipi so Bhagavā Bhagavā, …
Hành-giả thực-hành tâm niệm câu ân-đức Phật-bảo, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Phật- bảo ấy, định-tâm theo dõi ân-đức Phật-bảo ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần, … trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo.
– Cách thứ ba: Niệm một danh từ ân-đức Phật-bảo.
Hành-giả có thể chọn một danh từ ân-đức Phật-bảo nào trong 9 ân-đức Phật-bảo làm đối-tượng, để thực- hành niệm ân-đức Phật-bảo ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của danh từ ân-đức Phật-bảo ấy, luôn luôn định-tâm nơi ân-đức Phật-bảo ấy.
Ví dụ: Niệm-niệm Arahaṃ, … Arahaṃ, … Arahaṃ, …
Hoặc: Niệm-niệm Buddho, … Buddho, … Buddho, …
Hoặc: Niệm-niệm Bhagavā,… Bhagavā, … Bhagavā,…
Hành-giả thực-hành tâm niệm danh từ ân-đức Phật- bảo, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Phật-bảo ấy, định-tâm theo dõi ân-đức Phật-bảo ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần, … trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm ân-đức Phật-bảo ấy, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo.
Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là một đề-mục thiền-định dễ làm cho phát sinh đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà đức- tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.
Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là đề-mục-thiền định vô cùng vi-tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được. Vì vậy, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo này chỉ có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.
Cho nên, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới thiện- tâm.
* Tuy nhiên, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo này không chỉ là pháp-hành thiền-định có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà tâm cận-định còn là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, diệt tận tham- ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được nữa. Như Đức-Phật dạy:
– Này chư tỳ-khưu! Có một pháp-hành mà hành-giả đã thực-hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc- pháp, để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Pháp-hành ấy là pháp-hành gì ?
– Pháp-hành ấy là Buddhānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo.
– Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo mà hành-giả đã thực-hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn”(1).
Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, không chỉ là đề-mục thiền-định, mà còn làm nền tảng để thực-hành pháp- hành thiền-tuệ nữa. Cho nên, đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Phật-bảo có 2 giai đoạn:
– Giai đoạn đầu: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật- bảo thuộc về pháp-hành thiền-định mà hành-giả thực- hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo có khả năng dẫn đến cận-định (upacārasamādhi) (phương-pháp đã trình bày).
– Giai đoạn sau: Sau khi hành-giả đã thực-hành đề- mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo đã đạt đến cận-định, nếu hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì cần phải có ngũ-uẩn hoặc danh-pháp, sắc-pháp làm đối- tượng thiền-tuệ.
Pháp-Hành Thiền-Tuệ
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cần phải có đối-tượng thân, thọ, tâm, pháp trong pháp-hành tứ niệm-xứ: thân niệm-xứ, thọ niệm-xứ, tâm niệm-xứ, pháp niệm-xứ, hoặc danh-pháp, sắc-pháp đều thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) làm đối-tượng- thiền-tuệ.
Tâm cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo làm nền tảng, làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ như thế nào?
Đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp, thì không có hành-giả thực-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo mà chỉ có dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự thực-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo đạt đến cận- định mà thôi.
* Phân Tích Theo Ngũ-Uẩn
– Tâm cận-định này đó là dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ, thuộc về thức-uẩn.
– Thọ tâm-sở đồng sinh với dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về thọ-uẩn.
– Tưởng tâm-sở đồng sinh với dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về tưởng-uẩn.
– Các tâm-sở còn lại đồng sinh với dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc về hành-uẩn.
– Sắc ý căn (hadayavatthu) là nơi nương nhờ để phát sinh dục-giới thiện-tâm ấy, thuộc sắc uẩn.
Ngũ-uẩn này thuộc về phần pháp niệm-xứ trong pháp-hành tứ niệm-xứ.
Như vậy, ngũ-uẩn này là 1 trong 5 đối-tượng trong phần pháp-niệm-xứ của pháp-hành tứ niệm-xứ, hoặc ngũ-uẩn, hoặc danh-pháp, sắc-pháp này cũng là đối- tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
* Phân Tích Theo Danh-Pháp, Sắc-Pháp
– Tâm cận-định này thuộc về phần tâm niệm-xứ trong pháp-hành tứ niệm-xứ, và tâm cận-định là 1 trong 16 loại tâm trong phần tâm niêm-xứ của pháp-hành tứ niệm-xứ.
Tâm cận-định này đó là dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ thuộc về danh-pháp cũng là đối-tượng của pháp- hành thiền-tuệ.
– Tâm cận-định này nương nhờ nơi sắc-ý-căn (hadayavatthu) thuộc về sắc-pháp cũng là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
Như vậy, tâm cận-định này là 1 trong 16 loại tâm trong phần tâm niệm-xứ, hoặc tâm cận-định này đó là dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ thuộc về danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh- niệm, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn hoặc danh-pháp, sắc-pháp; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của ngũ-uẩn, hoặc danh-pháp, sắc-pháp dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Cho nên, tâm cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Phật-bảo làm nền tảng, làm đối-tượng thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ như Đức-Phật dạy:
– Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, mà hành-giả đã thực-hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp, để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”
Quả Báu Đặc Biệt Niệm-Niệm 9 Ân-Đức Phật-Bảo
Hành-giả thực-hành niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, trong kiếp hiện-tại, nếu chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, chưa trở thành bậc Thánh-nhân thì hành-giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp vị-lai như sau:
– Được phần đông chúng-sinh kính trọng.
– Có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
– Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.
– Sau khi chết, đại-thiện-nghiệp này cho quả tái-sinh làm người cao quý hoặc chư-thiên cao quý.
– Tái-sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng-sinh cao quý.
– Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
– Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
– Thân có mùi thơm toả ra.
– Miệng có mùi thơm toả ra.
– Có trí-tuệ nhiều.
– Có trí-tuệ sâu sắc.
– Có trí-tuệ sắc bén.
– Có trí-tuệ nhanh nhẹn.
– Có trí-tuệ phong phú.
– Có trí-tuệ phi thường.
– Nói lời hay có lợi ích, …
– Kiếp vị-lai có duyên lành gặp Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, …
Đó là những quả báu phát sinh từ thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức-Phật.
Nhận Xét Về Đề-Mục Niệm-Niệm Ân-Đức Phật-Bảo
Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là một đề-mục thiền-định chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo. Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo này dễ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo.
Đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo có tầm quan trọng làm nền tảng cho tất cả mọi thiện-pháp được phát triển từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến Siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Ban Đầu Có Đức-Tin, Sau Càng Vững Chắc
Có số người, ban đầu nghe đến danh hiệu Buddho: Đức-Phật, liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật, phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ.
* Như trường hợp ông phú hộ Anāthapiṇḍika(1): Khi nghe ông phú hộ kinh-thành Rājagaha nói đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” ông phú hộ Anāthapiṇḍika liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, muốn đến hầu đảnh lễ Đức-Phật ngay, nhưng ban đêm không phải thời, ông chờ đợi đến sáng.
Trong lúc nằm ông niệm tưởng đến “Buddho: Đức- Phật” nên đại-thiện-tâm phát sinh ánh sáng, ông tưởng gần sáng, liền thức dậy, ông đến hầu đảnh lễ Đức-Phật vào canh chót đêm ấy. Đức-Phật thuyết pháp tế độ ông phú hộ, ông lắng nghe chánh-pháp liền chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
* Trường hợp Đức-vua Mahākappina(2) cùng với 1.00 quan cận thần, khi gặp nhóm người lái buôn từ kinh-thành Sāvatthī, Đức-vua truyền hỏi nhóm lái buôn ấy ở kinh-thành Sāvatthī có tin lành gì không ?
Nhóm lái buôn tâu lên Đức-vua rằng:
– Buddho uppanno: Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian. Đức-vua lắng nghe danh hiệu “Buddho: Đức- Phật” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có.
– Dhammo uppanno: Đức-Pháp đã xuất hiện trên thế gian. Đức-vua lắng nghe danh hiệu “Dhammo: Đức- Pháp” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có.
– Saṃgho uppanno: Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian. Đức-vua lắng nghe danh hiệu “Saṃgho: Đức- Tăng” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có.
Đức-vua Mahākappina ban thưởng cho nhóm lái buôn mỗi tin lành 100 ngàn kahāpana, 3 tin lành gồm có 300 ngàn kahāpana (một số tiền rất lớn của thời ấy), được ghi trên tấm thẻ, rồi trao cho nhóm lái buôn, truyền bảo rằng:
– Này các ngươi! Các ngươi hãy đem tấm thẻ này đến trình với Chánh-cung Hoàng-hậu Anojā, để lĩnh thưởng 300 ngàn kahāpana.
Đức-vua Mahākappina không chịu hồi cung, mà từ đó Đức-vua ngự đến hầu Đức-Phật cùng 1.000 quan cận thần.
Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, Đức-vua cùng 1.000 quan cận thần liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Đức-vua Mahākappina cùng với 1.000 quan cận thần kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu, rồi chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng tứ tuệ-phân-tích, lục-thông tại nơi ấy, v.v…
Ban Đầu Không Có Đức-Tin, Sau Phát Sinh Đức-Tin
Có số người ban đầu nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh ác-tâm, muốn tìm đến tranh tài, đấu trí với Đức-Phật.
* Như trường hợp ông Bà-la-môn Bhāradvāja(1) đến tìm Đức-Phật để tranh tài đấu trí. Nhưng sau khi ông lắng nghe, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, kính xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Tỳ-khưu Bhāradvāja tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
* Trường hợp ông Bà-la-môn Akkosaka(2) nghe tin người anh là Bà-la-môn Bhāradvāja đã xuất gia theo Đức-Phật, ông Bà-la-môn Akkosaka nổi cơn giận dữ, tìm đến gặp Đức-Phật, chửi mắng, hăm dọa Đức-Phật. Nhưng sau khi ông lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, kính xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Tỳ-khưu Akkosaka tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
* Trường hợp kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla(1) nhìn thấy Đức-Phật liền đuổi theo để giết Đức-Phật, đến khi kiệt sức đứng lại, y bảo Đức-Phật hãy dừng lại, nhưng Đức-Phật không dừng mà vẫn bước đi khoan thai, Đức- Phật đáp rằng:
– Này Aṅgulimāla! Như-lai đã dừng lâu rồi. Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.
Nghe Đức-Phật vừa đi vừa truyền dạy như vậy, Aṅgulimāla vô cùng ngạc nhiên, rồi suy nghĩ rằng:
Sa-môn dòng Sakya thường nói sự-thật, làm như thế nào, nói như thế ấy, nói như thế nào, làm như thế ấy.
Trong khi Sa-môn đang bước đi mà nói rằng: “Như- lai đã dừng lâu rồi.” Còn ta đã dừng lại rồi, thì ông nói rằng: “Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.” Như thế nghĩa là sao!
Aṅgulimāla bèn hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:
– Này ông Sa-môn, sự-thật rõ ràng ông đang bước đi, mà lại nói: “Như-lai đã dừng lâu rồi.” Còn tôi đã dừng chân lại rồi, nhưng ông lại nói: “Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.” Như vậy, nghĩa là sao?
Đức-Thế-Tôn thuyết giảng Aṅgulimāla rằng:
– Này Aṅgulimāla! Thật vậy, Như-lai đã dừng từ lâu rồi, nghĩa là Như-lai đã từ bỏ sự sát hại chúng-sinh từ lâu rồi. Còn con chưa chịu từ bỏ sự sát hại chúng-sinh. Vì vậy, Như-lai mới nói rằng: “Chính con mới là người chưa chịu dừng lại.”
Khi lắng nghe Đức-Phật trả lời câu hỏi, y liền thức tỉnh, ném bỏ khí giới, đến hầu đảnh lễ dưới bàn chân của Đức-Phật, rồi xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Về sau, tỳ-khưu Aṅgulimāla thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
* Trường hợp Đức-Phật ngự đến lâu đài của Dạ-xoa Āḷavaka(1), ngự trên bảo tọa của y. Nghe tin như vậy, Dạ-xoa Āḷavaka liền nổi cơn giận dữ, trở về dùng mọi phép mầu nguy hiểm để xua đuổi Đức-Phật, nhưng y hoàn toàn bất lực. Cuối cùng y có một câu kệ khó, mà từ lâu y quên hẳn câu trả lời, y đem câu kệ ấy đặt điều kiện hỏi Đức-Phật.
Nếu Đức-Phật không giải đáp được thì Đức-Phật phải rời khỏi pháp toạ của y. Đức-Phật đã giải đáp đúng ý nghĩa sâu sắc của câu kệ, làm cho Dạ-xoa Āḷavaka vô cùng hoan hỷ. Ngay khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn trở thành bậc Thánh Nhập-lưu có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Đức- Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, …
Vậy, do nguyên nhân nào, ban đầu có một số người vừa nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, nghe chánh-pháp trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Ngài?
Và có số người ban đầu vừa nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh tâm sân, bực tức, nhưng sau đó, họ lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, hiểu rõ chánh-pháp của Đức-Phật, mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật và trở thành bậc Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật ?
Nhận xét thấy rằng:
* Nhóm người thứ nhất đặt trọng tâm nơi Đức-Phật, cho nên, khi họ lắng nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức- Phật” liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, đến hầu đảnh lễ Ngài, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp tế độ, rồi họ thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, liền dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Ngài.
* Nhóm người thứ nhì đặt trọng tâm nơi Đức-Pháp, cho nên khi họ lắng nghe hiểu rõ chánh-pháp của Đức- Phật mới phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Như vậy, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo là một đề-mục thiền-định dễ phát sinh đức-tin nơi Đức- Phật. Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Phật-bảo trở thành thói quen, được tích lũy trong tâm trải qua thời gian lâu dài từ những kiếp quá-khứ, thì nay kiếp hiện-tại này, khi nghe danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh thiện-tâm hỷ lạc, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật.
Nếu kiếp hiện-tại, hành-giả thường tinh-tấn thực- hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo thì cũng dễ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ có đức-tin nơi Đức-Phật, mọi thiện-pháp được phát triển và tăng trưởng tốt, đem lại sự an-lạc cả trong kiếp hiện-tại, lẫn nhiều kiếp trong vị-lai.
Phân Tích Niệm 9 Ân-Đức Phật-Bảo
Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác có 9 ân-đức, được phân tích ra từng mỗi ân-đức Phật-bảo như sau:
1- Itipi so Bhagavā Arahaṃ,
2- Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho,
3- Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno,
4- Itipi so Bhagavā Sugato,
5- Itipi so Bhagavā Lokavidū,
6- Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi,
7- Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ,
8- Itipi so Bhagavā Buddho, 9- Itipi so Bhagavā Bhagavā.
Hành-giả niệm chữ nào, hiểu rõ ý nghĩa của mỗi chữ ấy; niệm câu nào, hiểu rõ chi pháp của câu ấy; và niệm ân-đức Phật-bảo nào, hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Phật-bảo ấy. Hành-giả chắc chắn sẽ phát sinh đức-tin trong sạch và sâu sắc nơi Tam-bảo.
Đề-mục thiền-định niệm-niêm 9 ân-đức Phật-bảo có ý nghĩa vô cùng vi-tế, sâu sắc rộng lớn vô lượng vô biên. Vì vậy định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được. Cho nên, đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Phật-bảo này chỉ có khả năng dẫn đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không thể chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), do đó không chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào.
Như vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới thiện- tâm, song có một tầm quan trọng rất lớn trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Thật vậy, trong tất cả 40 đề-mục thiền-định đều đạt đến cận-định (upacārasamādhi) cả thảy, chỉ có một số đề-mục thiền-định có khả năng dẫn đạt đến an-định (appanāsamādhi), để chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới mà thôi.
Trong tất cả 40 đề-mục thiền-định ấy, có những đề-mục thiền-định trong Phật-giáo và ngoài Phật-giáo. Song đề- mục niệm-niệm 9 ân-đức Phật-bảo, đề-mục niệm-niệm 6 ân-đức Pháp-bảo, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo, đề-mục niệm tưởng ân-đức Niết-bàn chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.