Tóm Lược Các-Nghiệp Và Quả Của Các-Nghiệ
Theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi-Diệu-Pháp Yếu-Nghĩa) của Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddhamahāthera trình bày về nghiệp có 4 phần (kammacatukka):
Kammacatukka: 4 Phần Nghiệp:
- Kiccacatukka: 4 loại nghiệp có phận-sự của nghiệp.
- Pākadānapariyāyacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo tuần tự.
- Pākakālacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo thời gian.
- Pākaṭṭhānacatukka: 4 loại nghiệp cho quả của nghiệp theo cõi giới.
Như vậy, 4 phần nghiệp gồm có 16 loại nghiệp.
Kamma: Nghiệp có 2 loại:
- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác- tâm) đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm), nên có 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) tính theo 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm).
- Kusalakamma: Thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 21 thiện-tâm đó là 8 dục-giới đại-thiện-tâm+ 5 sắc-giới thiện-tâm + 4 vô-sắc-giới thiện-tâm + 4 siêu-tam-giới thiện-tâm ( 4 Thánh-đạo-tâm).
1- Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) được tạo do nương nhờ nơi 3 môn: thân, khẩu, ý:
Thân ác-nghiệp có 3 loại:
- Ác-nghiệp sát-sinh.
- Ác-nghiệp trộm-cắp.
- Ác-nghiệp tà-dâm.
3 ác-nghiệp này phần nhiều được tạo do nương nhờ nơi thân-môn.
Khẩu ác-nghiệp có 4 loại:
- Ác-nghiệp nói dối.
- Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.
- Ác-nghiệp nói lời thô tục.
- Ác-nghiệp nói lời vô ích.
4 ác-nghiệp này phần nhiều được tạo do nương nhờ nơi khẩu-môn.
Ý ác-nghiệp có 3 loại:
- Ác-nghiệp tham lam của người khác.
- Ác-nghiệp thù hận người khác.
- Ác-nghiệp tà-kiến.
3 ác-nghiệp này được tạo do nương nhờ nơi ý-môn.
2- Kusalakamma: Thiện-nghiệp được tạo nương nhờ 3 môn: thân, khẩu, ý.
Thiện-nghiệp có 4 loại thiện-nghiệp:
– Dục-giới đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp do nương nhờ 3 môn: thân, khẩu, ý tạo 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp:
Thân thiện-nghiệp có 3 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
- Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
- Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.
Khẩu thiện-nghiệp có 4 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không nói dối.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.
- Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.
Ý thiện-nghiệp có 3 loại:
- Đại-thiện-nghiệp không tham lam của người khác.
- Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.
- Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến.
* Dục-giới đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm tạo 10 phước-thiện.
- Phước-thiện bố-thí (Dānakusala).
- Phước-thiện giữ-giới (Sīlakusala).
- Phước-thiện hành-thiền (Bhāvanākusala).
- Phước-thiện cung kính (Apacāyanakusala).
- Phước-thiện hỗ-trợ (Veyyāvacakusala).
- Phước-thiện hồi-hướng (Pattidānakusala).
- Phước-thiện hoan-hỷ (Pattānumodanakusala).
- Phước-thiện nghe pháp (Dhammassavanakusala).
- Phước-thiện thuyết-pháp (Dhammadesanākusala).
- Phước-thiện chánh-kiến (Diṭṭhijukammakusala).
– Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.
– Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.
– Siêu-tam-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-Đạo-tâm.
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
Đức-Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp rằng:
Đức-Phật dạy:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-
bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.”
Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng qủa
của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta; ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện-nghiệp hoặc quả của ác-nghiệp ấy.
* Kamma: Nghiệp
Nghiệp có 2 loại:
- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp).
- Kusalakamma: Thiện-nghiệp.
* Kammassako’mhi: Ta có nghiệp là của riêng.
Ác-nghiệp nào hoặc thiện-nghiệp nào mà ta đã tạo ác-nghiệp ấy hoặc thiện-nghiệp ấy chỉ là của riêng ta mà thôi, hoàn toàn không phải là của chung với ai cả, không liên quan đến người khác, chúng sinh khác.
Sự thật là mỗi người đều có quyền hoàn toàn chủ động, tự lựa chọn muốn tạo ác-nghiệp nào hoặc nên tạo thiện-nghiệp nào tuỳ theo khả năng của mình.
Khi ta đã tạo ác-nghiệp nào hoặc thiện-nghiệp nào rồi thì ác-nghiệp ấy hoặc thiện-nghiệp ấy chỉ là của riêng của mỗi người, hoàn toàn không phải là của chung với ai cả, không liên quan đến người khác, chúng sinh khác.
Nếu người nào có trí-tuệ hiểu biết đúng như vậy thì người ấy có“kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến về nghiệp của mình.
Mỗi chúng sinh nào đã từng tạo mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp dù nhẹ, dù nặng vẫn được lưu trữ ở trong tâm của chúng sinh ấy từ vô thuỷ, kiếp này sang kiếp khác trải qua vô số kiếp cho đến kiếp-hiện-tại, dù cho sắc thân có thay đổi mỗi kiếp theo quả của nghiệp, nhưng tâm vẫn sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác đối với chúng sinh còn là hạng phàm-nhân, tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp vẫn lưu trữ đầy đủ nguyên vẹn, không có nghiệp nào bị mất mát cả. Như Đức-Phật dạy:
“Kammassako’mhi: Nghiệp là của riêng ta.”
* Kammaphala: Quả của nghiệp
Quả của nghiệp có 2 loại:
- Quả của ác-nghiệp.
- Quả của thiện-nghiệp.
Đức-Phật dạy rằng:
“ Yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.”
Ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện-nghiệp hoặc quả của ác-nghiệp ấy.
1- Quả Của Các Ác-Nghiệp.
Ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 ác-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:
- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp-hiện-hữu
Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, chỉ có 11 ác-nghiệp (trừ ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm) cho quả chỉ có 1 quả-tâm là suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), bị sinh làm chúng sinh trong cõi ác-giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực quả của ác-nghiệp ấy.
Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh kiếp-hiện-hữu, 12 ác-nghiệp cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm.
7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm này biết những đối-tượng xấu không đáng hài lòng trong kiếp-hiện-tại.
2- Quả Của Các Thiện-Nghiệp.
Thiện-nghiệp có 4 loại thiện-nghiệp:
- Dục-giới đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm, nên có 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp,
- Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm, nên có 5 sắc-giới thiện-nghiệp.
- Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, nên có 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp.
- Siêu-tam-giới-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, nên có 4 siêu-tam-giới thiện-nghiệp.
Trong 4 loại thiện-nghiệp này, chỉ có 3 loại thiện-nghiệp là dục-giới đại-thiện-nghiệp,sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau.
Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh,kiếp-hiện-hữu
1- 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ:
1.1- Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, 8 dục-giới đại-thiện-
nghiệp cho quả có 9 dục-giới quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-tâm gọi là 9 dục-giới tái-sinh-tâm (paṭi-citta) làm phận-sự trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, được sinh làm người hoặc làm thiên-nam hoặc thiên-nữ trong cõi trời dục-giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực quả của đại-thiện-nghiệp ấy.
1.2- Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh.
Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp-hiện-hữu, 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả có 16 dục-giới quả-
tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp.
8 thiện-quả vô-nhân-tâm này biết những đối-tượng tốt đáng hài lòng trong kiếp-hiện-tại.
2- 5 sắc-giới thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp-kế-tiếp:
Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp-kế-tiếp, 5 sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả có 5 sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh hoá-sinh kiếp-kế-tiếp trên 16 tầng trời cõi sắc-giới phạm-thiên, được sinh làm phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy.
3- 4 sắc-giới thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp-kế-tiếp:
Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp-kế-tiếp, 4 vô-sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả có 4 vô-sắc-giới quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh hoá-sinh kiếp sau trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm ấy.
4- Siêu-tam-giới-thiện-nghiệp không cho quả tái-sinh kiếp sau, mà trái lại làm giảm kiếp tái-sinh tuỳ theo năng lực của mỗi bậc Thánh-nhân, đến bậc Thánh-A-ra-hán, ngay kiếp-hiện-tại chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Nhận Xét Về Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
Mỗi người đều có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn muốn tạo ác-nghiệp nào hoặc thiện-nghiệp nào tuỳ theo khả năng của mình.
Nếu khi người nào đã tạo ác-nghiệp nào hoặc đại-thiện-nghiệp nào rồi thì ác-nghiệp ấy hoặc đại-thiện-nghiệp chỉ thuộc về của riêng người ấy mà thôi (kammassako), chắc chắn không phải của chung với ai khác, không liên quan với người nào khác, không liên quan với chúng sinh nào khác.
Nếu ác-nghiệp ấy hoặc đại-thiện-nghiệp ấy của người ấy có cơ-hội cho quả, ác-nghiệp cho quả khổ hoặc đại-thiện-nghiệp ấy cho quả an-lạc thì người ấy hoàn toàn bị động phải chấp nhận quả của nghiệp, như người thừa kế quả của nghiệp của mình (kammadāyādo), hoàn toàn không có quyền khước từ.
Đặc biệt quả khổ của ác-nghiệp ấy hoặc quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy không chỉ trực-tiếp thuộc về của riêng người ấy, mà sự-thật quả khổ của ác-nghiệp ấy hoặc quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy còn gián-tiếp ảnh hưởng đến những người gần gũi thân cận với người ấy nữa.
Thật vậy, trích ra những tích dẫn chứng như sau:
* Quả Khổ Của Ác-Nghiệp.
* Tích phú-hộ Ānanda([1])
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại kinh-thành Sāvatthī, đề cầp đến ông phú-hộ Ānanda trong kinh-thành Sāvatthī, được tóm lược như sau:
Ông phú-hộ Ānanda có của cải tài-sản đến 400 triệu, vốn là người keo kiệt, bủn xỉn trong của cải tài-sản của mình. Ông phú-hộ Ānanda có một đứa con trai tên Mūlasiri, hằng ngày, ông phú-hộ dạy người con trai rằng:
– Này Mūlasiri! Con đừng nghĩ rằng: “của cải tài-sản có 400 triệu là nhiều! Con chớ nên làm hao bớt của cải tài-sản cũ của mình, mà chỉ nên gom góp của cải mới thêm vào mà thôi.”
Do tâm keo kiệt, bủn xỉn trong của cải tài-sản của mình, ông phú-hộ Ānanda chôn giấu 5 hầm của báu mà không nói cho người con trai Mūlasiri biết.
Về sau, ông phú-hộ Ānanda lâm bệnh nặng từ giã cuộc đời, ông phú-hộ Ānanda sau khi chết, đại-thiện-nghiệp bậc thấp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai trong bụng của người đàn bà thuộc về giai cấp thấp hèn trong xóm nhà có ngàn gia-đình giai cấp thấp hèn ở gần cửa thành Sāvatthī.
Đức-vua Pasenadi Kosala được biết ông phú-hộ Ānanda đã chết, nên cho truyền gọi người con trai Mūlasiri của ông phú-hộ Ānanda đến, Đức-vua ban danh
hiệu phú-hộ cho Mūlasiri.
* Xóm nhà có ngàn gia-đình giai cấp thấp hèn, kể từ khi người đàn bà mang thai (hậu kiếp của phú-hộ Ānanda), những gia đình ấy không có ai thuê mướn làm việc, để nuôi sống, nên chịu cảnh thiếu thốn, đói khổ.
Ông trưởng xóm nhà gọi những gia đình họp lại thông báo rằng:
– Này các gia đình! Nay, có người kāḷakaṇṇī (xúi quẩy) đầu thai trong xóm nhà chúng ta, nên chúng ta phải chịu cảnh thiếu thốn, đói khổ.
Vậy, chúng ta nên thanh lọc bằng cách chia ra làm 2 nhóm, mỗi nhóm 500 gia đình.
Nhóm không có người đàn bà mang thai, vẫn làm ăn như bình thường trước kia.
Nhóm có người đàn bà mang thai, còn chịu cảnh thiếu thốn, đói khổ, nên chia ra làm 2 nhóm, mỗi nhóm 250 gia đình. Nhóm có người đàn bà mang thai, còn chịu cảnh thiếu thốn, đói khổ.
Cứ như vậy, chia ra làm 2 nhóm, chia ra làm 2 nhóm. Cuối cùng, còn lại 2 gia đình. Gia đình có người đàn bà mang thai, chịu cảnh khổ thiếu thốn đói khổ, nên đuổi người đàn bà mang thai ở riêng.
Người mẹ mang thai (thai nhi là hậu kiếp của phú-hộ Ānanda) phải chịu cảnh khổ thiếu thốn đói khổ cho đến ngày sinh con ra đời.
Đứa bé trai có thân hình tật nguyền rất xấu xí kỳ dị thật đáng ghê tởm, nhưng người mẹ vẫn thương con, nuôi dưỡng con trong hoàn cảnh vô cùng khổ cực, cho đến khi đứa con biết đi lại được.
Một hôm, người mẹ dắt đứa con đi xin ăn, đi vất vả mà chẳng có ai cho gì cả, rồi dắt đứa con về ở nhà. Một
mình người mẹ đi thì có người thuê muớn làm việc, rồi cho đồ ăn đem về nuôi đứa con.
Về sau, đứa con có thể tự đi xin ăn, nên người mẹ bảo đứa con rằng:
– Này con! Mẹ đã nuôi con đến ngày nay, mẹ phải chịu vô vàn cực khổ. Nay, thân hình gầy yếu của mẹ không thể nuôi dưỡng con được nữa. Con có thể tự đi xin ăn được.
Trong kinh-thành Sāvatthī này, có những trại bố-thí vật thực dành cho người tàn tật, người mồ côi, người qua đường, con nên đem cái bát này đến những trại bố-thí ấy để nhận vật thực sống qua ngày nghe con!
Nghe lời người mẹ chỉ dạy như vậy, đứa con một mình tự đi vào trong kinh-thành Sāvatthī, xin ăn sống qua ngày.
Một hôm, đứa bé đi đến trước ngôi nhà của ông phú-hộ Mūlasiri, đứa bé liền nhớ được kiếp trước của mình là ông phú-hộ Ānanda, ngôi nhà này là của mình kiếp trước, nên đứa bé đi thẳng vào ngôi nhà.
Nhìn thấy đứa bé có thân hình xấu xí kỳ dị đáng ghê tởm, người con của ông phú-hộ Mūlasiri, hoảng sợ, kinh hồn la hét lên.
Khi nghe tiếng la hét hoảng sợ của người con phú-hộ, những gia nhân chạy đến thấy đứa bé kỳ dị đáng ghê tởm như vậy, nên đánh đuổi đứa bé ấy, rồi lôi ra bỏ ngoài đống rác.
Đức-Phật thuyết-pháp tế độ phú-hộ Mūlasiri.
Đức-Thế-Tôn ngự vào kinh-thành Sāvatthī đi khất thực cùng với Ngài Trưởng-lão Ānanda theo sau. Nhìn thấy đứa bé ấy, Đức-Thế-Tôn quay lại nhìn Ngài Trưởng-lão.
Ngài Trưởng-lão Ānanda kính bạch Đức-Thế-Tôn, đã biết rõ nguyên-nhân. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda cho người mời ông phú-hộ Mūlasiri đến hầu Đức-Thế-Tôn, và có số dân chúng trong kinh-thành Sāvatthī đến tụ hội tại nơi ấy.
Đức-Thế-Tôn truyền hỏi phú-hộ Mūlasiri rằng:
– Này phú-hộ Mūlasiri! Con có biết đứa bé này là ai không?
Phú-hộ Mūlasiri kính bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con không biết đứa bé này là ai. Bạch Ngài.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này phú-hộ Mūlasiri! Tiền-kiếp của đứa bé ấy chính là phú-hộ Ānanda là phụ thân của con. Truyền dạy như vậy xong, Đức-Thế-Tôn truyền bảo đứa bé ấy rằng:
– Này phú-hộ Ānanda! Bây giờ, ngươi nên chỉ 5 hầm của báu cho con của ngươi!
Nghe Đức-Thế-Tôn truyền bảo như vậy, đứa bé liền dẫn phú-hộ Mūlasiri đến chỗ chôn giấu 5 hầm của báu.
Ông phú-hộ Mūlasiri đào gặp 5 hầm của báu, nên tin chắc chắn đứa bé xấu xí kỳ dị này mà tiền-kiếp đúng là ông phú-hộ Ānanda là thân phụ của mình.
Ông phú-hộ Mūlasiri phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, rồi kính xin quy y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, kính xin quy y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo,
kính xin quy y nương nhờ nơi chư tỳ-khưu-Tăng-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận ông phú-hộ Mūlasiri là cận-sự-nam (upāsaka) đã quy y nương nhờ nơi Tam-bảo:Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kể từ đó cho đến trọn đời, trọn kiếp.
Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ phú-hộ Mūlasiri bằng câu kệ rằng:
“ Puttā matthi dhanamm’atthi, iti bālo vihaññati.
Attā hi attano natthi, kuto puttā kuto dhanaṃ ?([2])”
Người si-mê bị khổ tâm vì chấp thủ,
Ta có các con, ta có nhiều của cải,
Sự thật, chính bản thân của ta,
Còn không phải là của ta!
Thì các con của ta từ đâu có được?
Thì của cải của ta từ đâu có được?
Sau khi Đức-Thế-Tôn thuyết dạy câu kệ này xong, có 84.000 chúng sinh được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc.
* Tích Ngài Trưởng-lão Losakatissa
Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthī, đề cập đến Ngài Trưởng-lão Losakatissa, trong tích Losakajātaka([3]) được tóm lược như sau:
Trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa là vị tỳ-khưu trụ-trì tại ngôi chùa làng. Vị tỳ-khưu còn là phàm-nhân có giới, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Thí-chủ xây dựng ngôi chùa làng, rồi thỉnh vị tỳ-khưu
về làm trụ trì, xin hộ độ các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu trong chùa. Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ trì đi khất thực, rồi độ vật thực tại nhà thí-chủ.
Một hôm, một vị khách Tăng là bậc Thánh-A-ra-hán từ phương xa đến đứng khất thực trước nhà thí-chủ.
Khi nhìn thấy Ngài khách Tăng, thí-chủ liền phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng, ông ra tận nơi kính thỉnh NgàiTrưởng-lão vào nhà, thỉnh Ngài Trưởng-lão ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng cúng-dường vật thực đến Ngài khách Tăng.
Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, người thí-chủ kính thỉnh Ngài thuyết-pháp, sau khi lắng nghe chánh-pháp thí-chủ phát sinh đức-tin vô cùng hoan hỷ, kính thỉnh Ngài khách Tăng đến nghỉ lại tại ngôi chùa.
Vị tỳ-khưu trụ trì theo dõi thấy người thí-chủ lần đầu tiên gặp vị khách Tăng này, cung-kính đón tiếp niềm nở, khiến cho vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng:
“Ta là vị trụ trì ở tại ngôi chùa nhiều năm, mà ông thí-chủ không đối xử với ta một cách niềm nở như vị khách Tăng này.”
Vì vậy, vị tỳ-khưu trụ trì dẫn Ngài khách Tăng về chùa, tiếp đón một cách lạnh nhạt, vị tỳ-khưu trụ trì chỉ phòng nghỉ cho Ngài Trưởng-lão.
Ngài khách Tăng làm vệ sinh căn phòng xong, rồi Ngài ngồi nhập Quả-định (phalasamāpatti) làm cho thân tâm được an-lạc.
Vào buổi chiều, người thí-chủ đi với những người nhà đem hoa, các thứ thuốc trị bệnh đến chùa, người thí-chủ vào đảnh lễ vị Đại-đức trụ-trì, cúng-dường đến vị Đại-đức trụ-trì một phần, rồi bạch hỏi rằng:
– Kính bạch Đại-đức trụ-trì, Ngài khách Tăng nghỉ ở phòng nào? Bạch Đại-đức.
Vị tỳ-khưu trụ-trì chỉ cho ông thí-chủ biết căn phòng nghỉ của Ngài khách Tăng.
Ông thí-chủ đến hầu đảnh lễ Ngài khách Tăng, rồi kính dâng những hoa, và các thứ thuốc trị bệnh như bơ lỏng, mật ong, dầu, v.v… rồi kính thỉnh Ngài khách Tăng thuyết-pháp. Ông thí-chủ và những người nhà ngồi lắng nghe chánh-pháp đến tối.
Ông thí-chủ ra đốt đèn cúng-dường đến cây Đại-Bồ-đề, ngôi bảo tháp, đốt đèn xung quanh làm cho ngôi chùa sáng toả mọi nơi, rồi ông thí-chủ vào đảnh lễ vị Đại-đức trụ-trì, rồi bạch rằng:
– Kính bạch Đại-đức trụ-trì, con kính thỉnh Đại-đức và Ngài khách Tăng ngày mai đến thọ thực tại tư gia của con. Bạch Đại-đức.
Kính bạch như vậy xong, ông thí-chủ đảnh lễ, xin phép trở về nhà.
Hằng ngày, ông thí-chủ thỉnh vị Đại-đức trụ-trì đi đến thọ thực tại nhà ông thí-chủ, ngày mai này, ông thỉnh Ngài khách Tăng cùng thọ thực tại nhà ông thí-chủ nữa.
Vị tỳ-khưu trụ-trì nghĩ rằng: “ Ông thí-chủ này mới gặp Ngài khách Tăng hôm nay, mà đối xử cung-kính đặc biệt với Ngài khách Tăng hơn cả ta ở tại ngôi chùa này.
Nếu Ngài khách Tăng ở tại ngôi chùa này thì ông thí-chủ đâu còn cung-kính ta như trước nữa.”
Do tính ganh tỵ nghĩ sai lầm như vậy, nên vị tỳ-khưu trụ-trì không hài lòng để cho Ngài khách Tăng ở lại ngôi chùa này, nhưng chưa biết làm cách nào để Ngài khách Tăng đi ra khỏi chùa mà không làm mất lòng ông thí-chủ.
* Ngài khách Tăng biết rằng: “ Vị vị tỳ-khưu trụ trì có thái độ không muốn ta ở lại ngôi chùa này.
Sáng ngày mai, ta sẽ rời khỏi ngôi chùa này, trở về chỗ ở của ta.”
Buổi sáng ngày hôm sau, đến giờ đi khất thực, vị tỳ-khưu trụ-trì đánh chuông bằng cách búng ngón tay, gõ cửa bằng móng tay, rồi âm thầm mang bát đi đến tư gia của ông thí-chủ.
Người thí-chủ ra đón rước vị Đại-đức trụ-trì, hai tay nhận cái bát, thỉnh mời vào nhà, thỉnh ngồi trên toạ cụ đã trải sẵn, người thí-chủ đảnh lễ vị trụ-trì, rồi bạch rằng:
– Kính bạch Đại-đức trụ-trì, Ngài khách Tăng sao chưa đến. Bạch Đại-đức.
Vị Đại-đức trụ-trì bảo với ông thí-chủ rằng:
– Này ông thí-chủ! Ông kính trọng vị khách Tăng như thế nào không biết, còn sư đã đánh chuông, gõ cữa, mà vẫn chưa thức dậy được. Hôm qua, vị khách Tăng độ vật thực ngon miệng của ông, còn no cho đến ngày hôm nay, sáng nay vị khách Tăng vẫn còn nằm ngủ say.
Ông thí-chủ kính trọng vị khách Tăng như thế ấy!
* Biết vị Đại-đức trụ-trì đã đi khất thực rồi, nên Ngài khách Tăng mặc y, mang bát bay lên hư không đến nơi khác, đi khất thực.
Mặc dù nghe vị Đại-đức trụ-trì nói về Ngài khách Tăng như vậy, nhưng ông thí-chủ vẫn hoàn toàn không tin đó là sự-thật, mà có đức-tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng là Bậc đáng tôn kính.
Cho nên, sau khi vị Đại-đức trụ-trì độ vật thực với món ăn đặc biệt gọi là pāyāsa (nấu bằng sữa, bơ, mật ong, đường thốt nốt rất công phu) xong. Người thí-chủ đem cái bát rửa sạch, rồi bỏ món ăn pāyāsa vào đầy bát, đem đến bạch với vị Đại-đức trụ-trì rằng:
– Kính bạch Đại-đức, Ngài khách Tăng ấy có lẽ đi đường xa vất vả, nên còn mệt. Kính xin Đại-đức đem phần vật thực này về chùa, dâng đến Ngài khách Tăng. Bạch Đại-đức.
Kính bạch xong, ông thí-chủ kính dâng bát vật thực ấy đến vị Đại-đức trụ-trì. Vị Đại-đức trụ-trì nhận cái bát, không hề nói lời nào.
Trên đường đi trở về chùa, vị tỳ-khưu trụ-trì nghĩ rằng: “ Nếu vị khách Tăng ấy được món ăn pāyāsa ngon miệng này, dù ta nắm cổ lôi ra khỏi chùa, không dễ dầu gì mà chịu đi.
Nếu ta đem cho món ăn pāyāsa đến người khác thì chắc chắn sẽ bị lộ ra nhiều người biết, hoặc nếu ta đổ món ăn pāyāsa xuống nước thì dầu bơ nổi trên mặt nước, hoặc nếu ta đổ bỏ trên mặt đất, các bầy chim bay lại ăn thì sẽ bị lộ ra nhiều người biết.
Vậy, ta nên đổ bỏ món ăn pāyāsa này nơi nào nhỉ!
Vừa đi vừa nghĩ, chợt nhìn thấy đám cháy, vị tỳ-khưu trụ-trì đi thẳng đến gần đám cháy, ngồi xuống đào đất, đổ bỏ món ăn pāyāsa xuống lỗ, lấp đất, cào đống than hồng phủ lên, chất thêm củi đốt cháy, rồi đứng dậy, như trút bỏ được gánh nặng, chắc chắn không có ai hay biết được việc làm của mình. Vị tỳ-khưu trụ-trì nhẹ nhàng đi trở về chùa.
Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ-trì không thấy Ngài khách Tăng, nên nghĩ rằng: “ Ngài khách Tăng ấy có lẽ là bậc Thánh-A-ra-hán biết được ác-tâm xấu xa đê tiện của ta, nên Ngài đã bỏ đi đến nơi khác rồi!
Ôi ! ta đã tạo ác-nghiệp nặng nề tồi tệ quá rồi!
Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ-trì vô cùng hối hận, nên lâm bệnh nặng, không lâu vị tỳ-khưu trụ-trì ấy chết, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, chịu thiêu đốt trong cõi địa-ngục suốt thế gian 100 ngàn năm, mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, năng lực của ác-nghiệp còn dư sót, tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau làm dạ-xoa suốt 500 kiếp, mỗi kiếp đều chịu cảnh đói khổ, đến gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.
Trong vòng tử sinh luân hồi, sinh kiếp nào thuộc về loại chúng sinh nào không chỉ một mình chịu cảnh đói khát, mà còn làm cho những chúng sinh gần gũi khác cũng bị ảnh hưởng đói khổ, nên kiếp ấy bị chúng xua đuổi đi nơi khác.
Mỗi hậu kiếp của vị trụ-trì, đều bị đói khổ cho đến khi gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.
Kiếp Chót Của Vị Tỳ-Khưu Trụ-Trì
* Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của vị tỳ-khưu trụ-trì kiếp chót, đại-thiện-nghiệp cho quả là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận-sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng mẹ đầu tiên thuộc hạng người tihetukapuggala: người tam-nhân([4]) trong xóm một ngàn gia đình dân chài trong vùng Kosala.
Trong ngày đầu thai vào lòng mẹ, những người trong một ngàn gia đình dân chài đem lưới đi bắt cá trong sông, hồ, mọi nơi, đều không bắt được con cá nhỏ nào cả, những ngày tiếp theo cũng như vậy.
Trong khi người đàn bà mang thai, xóm 1000 gia đình dân chài bị cháy nhà liên tiếp 7 lần, bị phạt vạ 7 lần. Xóm 1000 gia đình phải chịu bao nhiêu nỗi khổ đói khổ, thiếu thốn, không có nơi nương tựa.
Khi ấy, vị trưởng xóm thông báo các gia đình trong xóm họp lại, rồi nói rằng:
– Thưa quý bà con! Trong xóm 1000 gia đình chúng ta từ trước đến nay, chưa có xảy ra những tai nạn liên tiếp như thế này, chưa chịu cảnh đói khổ như thế này!
Trong 1000 gia đình chúng ta chắc có “kālakaṇṇī: người xúi quẫy.” Vậy, chúng ta nên chia ra làm 2 nhóm riêng biệt, mỗi nhóm có 500 gia đình.
* Nhóm 500 gia đình không có người mẹ mang thì làm ăn bình thường như trước.
* Nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên, chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 250 gia đình.
* Nhóm 250 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 125 gia đình.
* Và cứ chia 2 nhóm như vậy, cuối cùng chỉ còn 2 gia đình. Mọi người biết gia đình có người mẹ mang thai là gia đình có người“ kālakaṇṇī: người xúi quẫy,”nên bị xua đuổi ra khỏi nhóm dân chài.
* Gia đình có người mẹ mang thai, hằng ngày, phải chịu cảnh đói khổ, nhưng thai nhi trong bụng mẹ là kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, nên dù đói khổ thế nào cũng không thể ảnh hưởng đến sinh mạng của thai nhi được.
* Thai nhi đủ tháng, người mẹ sinh ra đứa bé trai, mẹ cha nuôi dưỡng đứa con rất vất vả khổ cực, cho đến khi đứa con khôn lớn chạy đi lại được.
Một hôm, người mẹ dẫn đứa con vào kinh-thành, đi xin ăn, người mẹ trao cho đứa con cái bát đất nung, dạy bảo đứa con trai rằng:
– Này con đáng thương! Mẹ đã khổ vì con suốt mấy năm qua, thân mẹ gầy yếu không thể lo nuôi dưỡng con được nữa. Con nên cầm bát đi xin ăn nhà đằng kia.
Dạy bảo đứa con trai như vậy xong, người mẹ lẫn trốn đi nơi khác. Từ đó, đứa bé trai một mình đi xin ăn bữa có bữa không, chưa có bữa nào được no bụng cả, sống lay lắt qua ngày.
Đứa bé trai sống lang thang vất vưởng, nằm ngủ nơi này nơi khác, không tắm giặt, thân thể dơ dáy đáng ghê tởm, miễn sao kiếm sống qua ngày là được.
Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta Tế Độ Đứa Bé Trai
* Năm lên 7 tuổi, đứa bé trai ngồi bên cạnh nhà, lượm từng hạt cơm mà người ta rửa nồi đổ bỏ, như loài quạ.
Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, nhìn thấy đứa bé trai đáng thương, Ngài Đại-Trưởng-lão phát sinh tâm bi muốn cứu khổ, nên gọi rằng:
– Này đứa bé đáng thương! Hãy đến đây!
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão gọi, đứa bé ngoan ngoãn đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi chắp hai tay lại.
Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:
– Này đứa bé đáng thương! Mẹ cha con ở đâu?
Đứa bé cung-kính bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, mẹ cha của con nói với con rằng: “ Bởi vì con làm cho mẹ cha phải chịu cảnh đói khổ”, nên mẹ cha bỏ con trốn đi rồi. Bạch Ngài.
Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:
– Này đứa bé đáng thương! Con có muốn xuất gia hay không?
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con rất tha thiết muốn xuất gia, nhưng đứa bé mồ côi như con, ai mà cho phép con xuất gia được.
– Này đứa bé đáng thương! Sư sẽ cho phép con xuất gia.
Đứa bé vô cùng hoan hỷ bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão từ bi tế độ cho phép con xuất gia.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta lấy vật thực cho đứa bé, dẫn đứa bé trở về đến chùa, cho tắm sạch sẽ, caọ tóc, mặc y, rồi làm lễ xuất gia trở thành Sāmaṇera: Sa-di có tên là Losakatissa.
Vị sa-di Losakatissa có ít tài lộc nhất, hằng ngày, vị sa-di Losakatissa đi khất thực, thí-chủ để vào bát một vài vá cơm, nhìn thấy giống như đã đầy bát rồi, không để thêm vào bát nữa. Vì vậy, hằng ngày vị Sa-di Losakatissa độ vật thực không đủ no, chỉ đủ sống qua ngày thực-hành phạm hạnh cao thượng mà thôi.
Khi vị sa-di Losakatissa có đầy đủ 20 tuổi, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cho phép làm lễ hành tăng-sự (saṃghakamma) upasampada nâng lên trở thành Bhikkhu:
Tỳ-khưu trong Phật-giáo.
Mặc dù hằng ngày Tỳ-khưu Losakatissa độ vật thực không đủ no, nhưng vẫn tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao-thượng.
Tỳ-khưu Losakatissa đã là bậc Thánh-A-ra-hán, hằng ngày, Ngài vẫn có vật thực độ không đủ no, làm cho thân thể của Ngài ngày một gầy yếu, đến ngày Ngài Trưởng-lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ Ngài Trưởng-lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn, nên nghĩ rằng:
“ Hôm nay, để cho Trưởng-lão Losakatissa độ vật thực no đủ, trước khi tịch diệt Niết-bàn.”
Hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn Ngài Trưởng-lão Losakatissa theo sau đi vào khất thực trong kinh-thành Sāvatthī có dân chúng đông đảo, mà không có một ai cúng-dường để bát một vá cơm nào cho Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cả.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ nguyên-nhân, nên dẫn Trưởng-lão Losakatissa trở về chùa, rồi dạy bảo Trưởng-lão Losakatissa ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ cho người đem vật thực đến cúng-dường.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở lại đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ vô cùng hoan hỷ đón tiếp Ngài Đại-Trưởng-lão, cúng-dường những thứ vật thực đầy đủ.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền bảo một người
đem một phần vật thực đến chùa, gặp Ngài Trưởng-lão Losakatissa tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, rồi dâng cúng-dường những thứ vật thực ấy đến Ngài Trưởng-lão Losakatissa.
Người nhận đem những thứ vật thực ấy, trên đường đi quên hẳn, không còn nhớ đến ai cả, cho nên Ngài Trưởng lão Losakatissa ngồi đợi mà không nhận được những vật thực ấy.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta độ vật thực xong, trở về chùa. Trưởng-lão Losakatissa đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền hỏi rằng:
– Này Losakatissa! Con đã nhận được những vật thực rồi phải không?
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con không nhận được những vật thực nào cả. Bạch Ngài.
Nghe Trưởng-lão Losakatissa bạch như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta phát sinh động tâm, biết thời gian vẫn còn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:
– Này Losakatissa! Con nên trở lại ngồi chỗ cũ, đợi sư phụ trở về nhé con!
Vâng lời dạy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa trở lại ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi thẳng vào cung điện của Đức-vua Pasenadi Kosala. Đức-vua ngự ra nhận bát của Ngài Đại-Trưởng-lão, suy xét không phải là thời gian để những món vật thực, nên Đức-vua để bát 4 thứ đồ ngọt là bơ lỏng, mật ong, dầu mè, đường thốt nốt đầy bát, rồi đem đến kính dâng bát lên Ngài Đại-
Trưởng-lão Sāriputta.
Sau khi nhận cái bát đầy 4 thứ đồ ngọt xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi trở về chùa, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta vẫn ôm cái bát, gọi Trưởng-lão Losakatissa đến dạy bảo rằng:
– Này Losakatissa! Con hãy lấy 4 thứ đồ ngọt mà dùng cho no đủ hôm nay.
Tỳ-khưu Losakatissa không dám lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà Ngài Đại-Trưởng-lão đang ôm trên tay để dùng, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:
– Này Losakatissa! Con tự nhiên lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà dùng. Nếu Sư phụ để cái bát rời khỏi tay thì chẳng còn thứ gì cho con dùng hôm nay cả.
Vâng lời dạy bảo, Ngài Trưởng-lão Losakatissa đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, rồi xin lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát dùng no đủ ngày hôm ấy.
* Ngay ngày hôm ấy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp đã lưu trữ ở trong tâm từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến trước khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ-hội cho quả được nữa.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu làm lễ hoả táng thi thể của Ngài Trưởng-lão Losakatissa, rồi xây ngôi tháp tôn thờ phần Xá-lợi của Ngài Trưởng-lão Losakatissa.
…
* Nghiệp và quả của nghiệp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa cho quả như sau:
* Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã tích-luỹ đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên kiếp-hiện-tại đại-thiện-nghiệp ấy cho quả trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã tạo ác-nghiệp đổ bỏ vật thực của bậc Thánh-A-ra-hán, nên ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả khổ trong mỗi kiếp bị đói khổ, cho đến kiếp chót của bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.
Nghiệp và quả của nghiệp là công bằng, không hề thiên vị một ai cả.
* Quả An Lạc Của Thiện-Nghiệp
*Tích Ngài Trưởng-lão Sīvali([5])được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali là một người cận-sự-nam trong một gia đình giàu có trong kinh thành Haṃsavatī. Một hôm đến chùa nghe Đức-Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức-Phật tuyên dương một vị Thánh đại-thanh-văn đệ-tử tên Sudassana có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật. Người cận-sự-nam, tiền kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali thấy Ngài Trưởng-lão Sudassana, liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật vị lai, như Ngài Trưởng-lão Sudassana ấy.
Người cận-sự-nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara, rồi kính thỉnh Đức-Phật ngự đến tư gia cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để làm phước-thiện đại thí suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, người cận-sự-nam cúng dường bộ y đến Đức-Phật Padumuttara cùng 500 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng mỗi vị 1 bộ.
Sau khi dâng bộ y xong, người cận-sự-nam ấy đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, phước-thiện bố-thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh- văn đệ tử của Đức-Phật trong thời vị lai, như Ngài Đại-đức Sudassana của Đức-Thế-Tôn bây giờ.
Đức-Phật Padumuttara dùng trí-tuệ vị-lai kiến-minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của người cận-sự-nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị lai, nên Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng.
– “Này chư Tỳ-khưu! Kể từ kiếp trái đất này, trong thời vị lai sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đến kiếp trái đất gọi Bhaddakappa có Đức-Phật Gotama(1) xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, người cận-sự-nam này sẽ sinh trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, như Sudassana là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử của Như Lai bây giờ.”
Lắng nghe lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara, người cận-sự-nam vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước-thiện bố-thí 4 thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến trọn đời.
Trong vòng tử sinh luân hồi, do đại-thiện-nghiệp ấy chỉ cho quả tái-sinh kiếp sau khi thì sinh làm vị thiên-nam cao quý trong trời dục-giới, hoặc khi thì sinh làm người cao quý trong cõi người mà thôi. Khi sinh làm người là người có đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật nhất là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
* Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali, sinh trong ngôi làng không xa kinh thành Bandhumatī. Khi ấy, dân chúng kinh thành Bandhumatī sửa soạn chuẩn bị làm phước-thiện đại-thí cúng-dường vật thực lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong.
Khi ấy, người dân làng (tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão Sīvali) đi đến kinh thành, có đem theo món bơ đặc và tổ mật ong.
Nhìn thấy người dân làng có đem theo món bơ cứng và tổ mật ong, người dân kinh thành muốn mua 2 món ấy với giá cao là 1 kahāpana. Người dân làng suy nghĩ
rằng: “ Hai món này của ta đâu có đáng giá đến 1 kahā-
pana, sao người ấy dám mua với giá cao như vậy. Ta
nên dò xét để biết sự-thật.”
Người dân làng giả làm bộ không chịu bán với giá 1
kahāpana, thì người ấy tăng lên 2 kahāpana, 5 kahāpana, … 10 kahāpana, …. 100 kahāpana, cuối cùng lên đến giá 1000 kahāpana. Khi ấy, người dân làng muốn biết sự-thật nên hỏi người ấy rằng:
– Này bạn thân mến! Hai món bơ đặc và tổ mật ong này không đáng giá bao nhiêu, vì sao bạn trả giá cao như vậy, bạn cần 2 món này để sử dụng vào công việc gì? Bạn có thể nói cho tôi biết được hay không?
Người dân kinh thành nói rằng:
– Này bạn thân mến! Dân kinh thành chúng tôi đồng nhau cùng làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong. Vì vậy, với giá nào, tôi cũng mua cho được 2 món ấy.
Người dân làng thưa rằng:
– Này thưa bạn thân mến! Việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, dành cho dân chúng trong kinh thành Bandhumatī, còn người khác làm phước-thiện bố-thí cúng-dường được hay không?
Người kinh thành thưa rằng:
– Này thưa bạn thân mến! Việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, không chỉ dành cho dân chúng trong kinh thành Bandhumatī, mà còn người khác cũng làm phước-thiện bố-thí cúng-dường được vậy.
Người dân làng thưa khẳng định rằng:
– Này thưa bạn thân mến! Bạn nên thông báo cho mọi người biết rằng: Hôm nay, làm phước-thiện bố-thí cúng-dường các món vật thực có đầy đủ cả 2 món bơ đặc và mật ong lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Xin bạn chứng minh tôi đem 2 món bơ đặc và mật ong đến cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī, hôm nay.
Người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) cảm thấy vô cùng hoan hỷ có được cơ-hội làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Phật Vipassī, nên đi tìm thêm những gia vị giả nhỏ vắt lấy nước trộn vào mật ong và bơ đặc làm thành món ăn đặc biệt, rồi gói bằng lá sen, đi đến ngồi chờ không xa Đức-Phật.
Những người đến cúng-dường các món vật thực đến Đức-Phật xong, đến cơ-hội, người dân làng đến hầu Đức-Phật bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đây là món ăn đạm bạc của con kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Thế-Tôn chủ trì. Kính xin Đức-Thế-Tôn có đại-bi tế độ nhận món ăn này của con.
Đức-Phật Vipassī có đại-bi tế độ nhận món ăn đạm bạc ấy bằng cái bát ngọc do Tứ đại-thiên-vương kính dâng, rồi Đức-Phật phát nguyện, đem chia món ăn đạm bạc ấy đầy đủ cho 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng vẫn còn dư.
Thấy Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ thực xong, người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ kính bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Hôm nay, dân chúng trong
kinh thành Bandhumatī đem các món vật thực đến cúng-dường lên Đức-Thế-Tôn, và con cũng cúng-dường món ăn đặc biệt ấy lên Đức-Thế-Tôn, do năng lực của quả đại-thiện-nghiệp bố-thí cúng-dường này, xin cho con kiếp nào con cũng có tài lộc bậc nhất.
Nghe lời nguyện cầu như vậy, Đức-Phật Vipassī truyền dạy rằng:
– Này con! Xin cho lời nguyện cầu của con sẽ được thành-tựu như ý.
Sau đó, Đức-Phật Vipassī thuyết-pháp tế độ dân chúng trong kinh thành Bandhumatī, rồi ngự trở về ngôi chùa cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Người dân làng cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho đến trọn kiếp.
Trong vòng tử sinh luân hồi, chỉ có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới. Kiếp làm người cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.
Hoàng-Tử Sīvali Kiếp Chót
* Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người cận-sự-nam trong thời kỳ Đức-Phật Padumuttara, đã bồi bổ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên sau khi chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót vào lòng Hoàng-hậu Suppavāsā đất nước Koliya.
Từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót (thai-nhi Sīvali) nằm trong bụng bà Hoàng-hậu Suppavāsā, do năng lực đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng, Hoàng-hậu Suppavāsā từ sáng đến chiều, nhận những phẩm vật quý giá từ mọi nơi đem đến làm quà quý báu dâng lên Hoàng-hậu.
Khi ấy, hoàng-tộc muốn biết Hoàng-hậu có nhiều phước như thế nào, nên mời Hoàng-hậu đến kho lương thực, mời Bà chạm tay vào cửa kho, thì kho đầy lương thực, Bà chạm tay vào cửa kho nào, thì kho ấy đầy của cải. Cho nên, mọi người trong hoàng tộc đều tán dương ca tụng rằng: “ Hoàng-hậu là người có nhiều phước.”
Một hôm, thị-nữ đem nồi cơm đầy dâng đến Hoàng-hậu, mời Bà chạm tay vào cái nồi, dù có bao nhiêu người xới cơm ra ăn, nồi cơm vẫn không vơi chút nào cả.
Đó là quả đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng của Mẫu-hậu.
Hoàng-Tử Sīvali Nằm Trong Bụng Mẫu-Hậu
* Hoàng-hậu Suppavāsā mang thai hoàng-tử Sīvali suốt 7 năm,([6]) Hoàng-hậu chịu nỗi đau đớn đến cùng cực vì cái thai trong bụng không sinh ra được đến ngày thứ 7, tưởng chừng không thể sống nổi, nên tâu và Đức-vua phu quân rằng:
– Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước-thiện bố-thí, trước khi chết.
Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch về chuyện thần thiếp đang chịu đau đớn đến cùng cực vì cái thai trong bụng không sinh ra được, rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để cho Hoàng-hậu Suppavāsā làm phước-thiện bố-thí.
Nghe Đức-Phật truyền dạy thế nào, xin Hoàng-thượng ghi nhớ thế ấy, khi hồi cung truyền lại cho thần thiếp biết.
Nghe lời tâu của Hoàng-hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch y theo lời của Hoàng-hậu Suppavāsā.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
“ Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”
Mong cho Suppavāsā Công-chúa dòng Koliya được thân tâm an-lạc, không có bệnh sinh ra đứa con cũng không có bệnh.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép hồi cung.
Tại cung điện, hoàng-tử sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
Mọi người trong hoàng-tộc vô cùng hoan hỷ thấy hoàng-tử sinh ra đời an toàn, cùng nhau đến chầu Đức-vua tâu tin lành này. Đức-vua ngự về đến cung điện, thấy mọi người hoàng-tộc hân hoan vui mừng, tâu với Đức-vua tin lành là hoàng-tử sinh ra đời được an toàn.
Khi ấy, Đức-vua suy nghĩ rằng:
“Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn có hiệu quả đúng như thật.”
Đức-vua ngự đến gặp Hoàng-hậu Suppavāsā, truyền lại y theo lời của Đức-Thế-Tôn cho Hoàng-hậu nghe. Hoàng-hậu Suppavāsā tâu với Đức-vua phu-quân rằng;
– Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước thiện bố-thí cúng-dường đến Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.
Đức-vua chấp thuận theo lời tâu của Hoàng-hậu. Hoàng-tử sinh ra đời đã dập tắt được sự nóng lòng của mọi người trong hoàng-tộc, nên làm lễ đặt tên hoàng-tử là Sīvali nghĩa là mát mẻ, nên gọi là hoàng-tử Sīvali.
Đức-vua kính thỉnh Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để làm phước-thiện bố-thí cúng-dường vật thực suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi hoàng-tử Sīvali rằng:
– Này hoàng-tử! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng Mẫu-hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?
Hoàng-tử Sīvali bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.
Thấy hoàng-tử bạch chuyện với Ngài Đại-Trưởng-lão, Hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết, nên đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, hoàng-tử của con bạch điều gì với Ngài Đại-Trưởng-lão vậy?
– Này Hoàng-hậu! Hoàng-tử của Bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.”
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói như vậy, nên Hoàng-hậu Suppavāsā vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hoàng-tử đi xuất gia, Bà bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão từ bi tế độ cho phép hoàng-tử của con được xuất gia. Bạch Ngài.
…
Hoàng-Tử Sīvali Xuất Gia
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn hoàng-tử Sīvali trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc, Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục “tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco, … taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā, …. (tóc, lông, móng, răng, da,… da, răng, móng, lông, tóc,…) Theo chiều thuận, theo chiều nghịch.
Hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc:
* Khi cạo những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng-ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng-ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng-ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Bất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng-ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cùng một lúc với lễ cạo tóc không trước không sau.
Khi ấy, Hoàng-tử Sīvali kể từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-hậu Suppavāsā suốt 7 năm với 7 ngày chịu khổ và sinh ra đời được 7 ngày. Cho nên, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-A-ra-hán lúc 7 năm và 14 ngày.([7])
Kể từ ngày Ngài Đại-đức Sīvali trở thành Sa-di, hằng ngày các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ dâng cúng dường 4 thứ vật dụng đến cho Ngài Đại-đức Sīvali cùng chư Đại-đức tỳ-khưu càng ngày càng đầy đủ, sung túc mà trước đây chưa từng có.
* Khi Ngài Đại-đức Sīvali tròn 20 tuổi, được làm lễ nâng lên bậc tỳ-khưu, những thứ vật dụng lại càng được phát sinh đầy đủ, sung túc đến chư Đại-đức tỳ-khưu nhiều hơn nữa.
Hễ mỗi khi có đoàn chư Tỳ-khưu đông đảo phải đi tế độ chúng-sinh từ xứ này sang xứ khác trên con đường dài, đi qua vùng hẻo lánh, không có dân cư; nhưng nếu có Ngài Đại-đức Sīvali cùng đi trong đoàn, đến giờ khất thực, do năng-lực của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Đại-đức Sīvali, khiến cho chư thiên hóa ra xóm làng, thành thị, hiện ra dân cư đông đảo cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Đại-đức tỳ-khưu.
Khi đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu đi khỏi vùng ấy, thì xóm làng, thành thị kia biến mất.
Một hôm, chư tỳ-khưu hội họp bàn về Ngài Đại-đức Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt không chỉ được phát sinh đến cho Ngài Đại-đức Sīvali, mà còn đến tất cả chư tỳ-khưu, dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Thật là điều phi thường, không những các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ là thí chủ, mà còn có chư thiên, Long vương cũng đem lễ vật, các thứ vật dụng dâng cúng dường đến cho Ngài Đại-đức Sīvali cùng tất cả chư tỳ-khưu bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.
Trong khi chư tỳ-khưu đang bàn luận về lợi lộc đặc biệt của Ngài Đại-đức Sīvali, thì Đức-Thế-Tôn ngự đến, Ngài truyền dạy rằng:
“Các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?”
Chư Tỳ-khưu bạch rằng:
-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn về quả phước-thiện đặc biệt của vị Đại-đức Sīvali. Bạch Ngài.
Nhân dịp ấy, Đức-Phật chủ trì buổi hội chư tỳ-khưu-Tăng, Đức-Phật tuyên dương Đại-đức Sīvali trước các hàng Thanh-văn đệ tử rằng:
“Etaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!”
– Này chư Tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh- văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
Ngài Đại-đức Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Đó là sự thành-tựu như ý nguyện mà tiền-kiếp của Ngài Đại-đức Sīvali đã từng phát nguyện, đã được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký đúng như vậy.
Quả Ác-Nghiệp Của Hoàng-Tử Sīvali
Dựa theo tích Khadiyavaniyarevatattheravatthu ([8])có đoạn đề cập đến ác-nghiệp mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo trong kiếp quá-khứ được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là người dân làng cùng với dân chúng trong kinh thành Bandhumatī, đã làm phước-thiện bố-thí cúng-dường món ăn bơ đặc với mật ong đặc biệt ấy đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật Vipassī chủ trì. Khi ấy, Đức-Phật Vipassī nhận món ăn đặc biệt ấy, rồi phát nguyện, đem chia món ăn đặc biệt ấy đầy đủ cho 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng vẫn còn dư.
Người dân làng sau khi chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trên các cõi trời dục-giới.
Một thuở nọ, vị thiên-nam sau khi chết tại cõi trời dục-giới ấy, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai vào lòng Hoàng-hậu của Đức-vua trị vì tại kinh-thành Bārāṇasī.
Hoàng-hậu sinh hạ ra hoàng-tử khôi ngô tuấn tú. Khi hoàng-tử trưởng thành có tài thao lược.
Cho nên, Đức-Phụ-vương sau khi băng hà, triều đình làm hoả táng xong, các quan trong triều làm lễ suy tôn hoàng-tử lên nối ngôi vua.
Đức-Vua Đem Quân Vây Hãm 4 Cửa Kinh-Thành
Sau khi lên ngôi làm vua, Đức-vua muốn đánh chiếm kinh-thành ấy, được Mẫu-hậu cũng đồng tình, nên Đức-vua dẫn đầu kéo các đoàn quân lính đến bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành ấy. Đức-vua truyền cho sứ giả gửi tối-hậu-thư đến Đức-vua trong kinh-thành rằng:
“ Hãy trao lại ngôi vua cho trẫm hoặc đánh nhau.”
Đức-vua trong kinh-thành trả lời rằng:
“ Trẫm không trao ngôi vua, cũng không đánh nhau.”
Những người dân trong kinh-thành đi ra vào lấy củi, nước, các thứ cần thiết bằng các cửa nhỏ, làm được mọi công việc hằng ngày.
Đức-vua cùng với các đoàn quân lính bên ngoài bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng.
Hoàng-thái-hậu của Đức-vua truyền hỏi rằng:
– Này các khanh! Hoàng-tử của ta đang làm gì vậy?
Các quan tâu rằng:
– Muôn tâu Hoàng-thái-hậu, Đức-vua đang truyền lệnh các đoàn quân lính bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng rồi. Tâu Lệnh bà.
Nghe các quan tâu như vậy, Hoàng-thái-hậu quở trách rằng: “ Hoàng-tử của ta còn khờ quá!”
Hoàng-thái-hậu truyền lệnh rằng:
– Này các khanh! Các khanh hãy tâu với Hoàng-tử của ta rằng:
“ Hãy đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.”
Tuân theo lệnh của Mẫu-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.
* Dân chúng trong kinh-thành không đi ra bên ngoài kinh-thành được, cảm thấy bực dọc, thiếu thốn mọi thứ, nên đến ngày thứ 7, dân chúng giết chết Đức-vua trong kinh-thành, rồi dâng ngôi vua cho Đức-vua bên ngoài.
* Đức-vua (tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali) sau khi băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
* Sau khi thoát khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện-nghiệp (mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo) cho quả tái-sinh đầu thai kiếp chót trong lòng Hoàng-hậu Suppavāsā (tiền-kiếp là mẫu-hậu của Đức-vua), thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng, và chịu thêm quả khổ của ác-nghiệp suốt 7 ngày, bị đau đớn đến cùng cực cả Mẫu-hậu lẫn thai-nhi, bởi vì thai-nhi nằm ngang không sinh ra được.
Đến ngày thứ 7, Đức-Phật Gotama truyền dạy rằng:
“ Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu.” Sau khi truyền dạy xong.
Tại cung điện, hoàng-tử Sīvali sinh ra khỏi lòng Mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.
* Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng, đó là quả của ác-nghiệp bao vây hãm 4 cửa kinh-thành của đất nướ khác.
* Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm ngang không sinh ra được, đó là quả của ác-nghiệp tuân theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ của kinh-thành, không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành.
Nghiệp Và Quả Của Nghiệp Của Ngài Trưởng-Lão Sīvali
* Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã tích-luỹ đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật hơn 100 ngàn đại-kiếp trái đất và lời phát nguyện được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký, nên đại-thiện-nghiệp ấy cho quả kiếp-hiện-tại hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-A-ra-hán là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đúng theo lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara.
* Tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là Đức-vua được mẫu-hậu đồng tình, nên dẫn các đoàn quân đến vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành khác suốt 7 năm, 7 tháng, rồi nghe theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, suốt 7 ngày. Đức-vua chiếm được kinh-thành.
Do ác-nghiệp quá-khứ ấy, nên kiếp-hiện-tại hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng Hoàng-hậu Suppavāsā suốt 7 năm, 7 tháng và 7 ngày.
* Hậu kiếp của Đức-vua, nay kiếp-hiện-tại là Hoàng-tử Sīvali.
*Hậu-kiếp của Mẫu-hậu, nay kiếp-hiện-tại là Hoàng-hậu Suppavāsā.
Nghiệp và quả của nghiệp là công-bằng, không hề thiên vị một ai cả.
[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Balavagga, tích Ānandaseṭṭhivatthu
[2] Bộ Dhammapadagāthā thứ 62, tích Ānandaseṭṭhivatthu
[3] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Atthakāmavagga, tích Losakajātaka
[4] Hạng người tam-nhân là người có đủ 3 nhân là vô-tham; vô-sân, vô-si (trí-tuệ) kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán
[5] Aṅg, Aṭṭhakathā, Etadaggapadavaṇṇanā, tích Sīvalittheravatthu
1 Từ thời kỳ Đức-Phật Padumuttara đến Đức-Phật Gotama trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất, có 15 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.
[6] Bộ Dha. aṭṭhakāthā, trong tich Khadiravaniyarevatattheravatthu, hoàng-tử Sīvali nằm trong bung Mẫu hậu suốt 7 năm 7 tháng 7 ngày.
[7] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā,và bộ Apadānaṭṭhakathā, Sīvalitthera apadāna, hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng mẫu-hậu suốt 7 năm 7 tháng, 7 ngày.
[8] Bộ Dham. Aṭṭhakathā, Arahantavagga, Khadiyavaniyarevatattheravatthu