4- Tám Cách Thọ Upasampadā
Trong Phật giáo, Ðức Phật đã chế định ban hành 8 cách thọ upasampadā.
* Ðối với Tỳ khưu có 5 cách như sau:
1- Ehi Bhikkhūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách Ðức Phật gọi “Ehi Bhikkhu”.
2- Saraṇagamanūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách thọ Tam quy.
3- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Ðức Phật.
4- Pañhābyākaraṇūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Ðức Phật.
5- Ñatticatutthakammūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn).
* Ðối với Tỳ khưu ni có 3 cách như sau:
6- Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ Tỳ khưu ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp.
7- Dūtenūpasampadā: Thọ Tỳ khưu ni bằng cách nhờ người đại diện.
8- Aṭṭhavācikūpasampadā: Thọ Tỳ khưu ni bằng cách giữa 2 Tăng phái: Tỳ khưu ni Tăng trước, Tỳ khưu Tăng sau, mỗi phái tụng một lần ñatti và 3 lần kammavācā, trở thành 8 lần tụng (aṭṭhavācika).
Giải Thích:
* Thọ Tỳ khưu (Bhikkhu upasampadā)
Ðức Phật chế định ban hành phép thọ Tỳ khưu bằng 5 cách.
1- Ehi Bhikkhūpasampadā như thế nào?
Người cận sự nam (hoặc đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo) sau khi nghe Ðức Phật thuyết pháp, phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng có ý nguyện muốn thọ Tỳ khưu, người cận sự nam ấy đến hầu Ðức Phật, đảnh lễ xin Ðức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Ðức Phật dùng Phật nhãn quán xét đến tiền kiếp người cận sự nam ấy thấy rõ rằng: “Người cận sự nam ấy là người có ba la mật đầy đủ, nhất là hạnh bố thí ba la mật, đã từng bố thí 8 món vật dụng của Sa môn (tam y, bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước), và đã phát nguyện trở thành Ehi Bhikkhu”.
Do đó, khi Ðức Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ truyền dạy rằng:
“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya”.
“Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối. Con hãy thực hành phạm hạnh đúng đắn dẫn đến sự chứng đắc tận cùng của khổ đế”.
Khi Ðức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, người cận sự nam ấy (hoặc đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo) trở thành Tỳ khưu, có đầy đủ 8 món vật dụng của Sa môn, được thành tựu là do quả của phước thiện (chư thiên đem đến dâng cúng), vị Tỳ khưu có Tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh, như một vị Tỳ khưu 60 hạ.
Như vậy gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách gọi Ehi Bhikkhūpasampadā.
Ðại Ðức Aññasi Koṇḍañña là vị đầu tiên thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”, cũng là vị Tỳ khưu đầu tiên trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama, và tiếp theo tuần tự các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, và Ngài Assaji cũng đều thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”.
Chỉ có Ðức Phật mới có khả năng cho phép giới tử thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” mà thôi. Ngoài ra, chư bậc Thánh Thanh văn không có oai lực cho thọ Tỳ khưu theo cách ấy. Ðức Phật Gotama cho phép giới tử thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” tất cả gồm có 28.647 vị Tỳ khưu.
– Trong Luật tạng có 1.344 Vị như sau:
Nhóm Pañcavaggī có 5 vị.
Ðại Ðức Yasa và bạn hữu có 56 vị.
Nhóm Bhaddavaggī anh em và bạn hữu có 1.030 vị.
Nhị vị Aggasāvaka và nhóm đệ tử có 252 vị.
Ðại Ðức Aṅgulimāla 1 vị.
– Trong Kinh Tạng có 27.303 Vị như sau:
Bà la môn Sela và nhóm đệ tử có 301 vị.
Ðức vua Mahākappina và cận thần có 1.001 vị.
Dân thành Kapilavatthu có 10.000 vị.
Bà la môn Pārāyanika và nhóm đệ tử có 16.001 vị.
Gồm có tất cả 28.647 Vị Tỳ khưu Ehi Bhikkhu.
2- Saraṇagamanūpasampadā như thế nào?
Về sau, chư bậc Thánh Tăng đi khắp nơi thuyết pháp để tế độ chúng sinh, nếu có người cận sự nam nào có đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng, có ý nguyện muốn thọ Tỳ khưu, Ðức Phật cho phép chư bậc Thánh Tăng rằng:
“Anujānāmi bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi pabbajjaṃ upasampadaṃ”.
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép thọ Sa di, Tỳ khưu bằng cách cho thọ Tam quy”.
Giới tử thọ Sa di, Tỳ khưu trước tiên phải cạo tóc râu, mặc y cà sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải, ngồi chồm hổm, chấp 2 tay để trên trán xin thọ Tam quy: “Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng”, bằng tiếng Pāḷi, đọc theo vị Thầy Tế Ðộ như sau:
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi, Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Khi người giới tử nào thọ Tam quy xong, người giới tử ấy trở thành Tỳ khưu.
Ðó gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách thọ Tam quy.
3- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?
Ðức Phật giáo huấn Ðại Ðức Mahākassapa 3 điều rằng: 1- “Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: trước tiên con nên có tâm hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi đối vối bậc cao hạ, bậc bằng hạ, bậc nhỏ hạ.
2- Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: con nên lắng nghe chánh pháp, nên cung kính mọi chánh pháp ấy, ghi nhớ đầy đủ mọi chánh pháp ấy.
3- Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: con nên tiến hành đề mục niệm thân”.
Khi Ðại Ðức Mahākassapa thọ nhận 3 điều giáo huấn của Ðức Phật, chính là sự thành tựu thọ Tỳ khưu của Ngài.
Ðó gọi là trường hợp thọ Tỳ khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Ðức Phật.
Ðây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho Ðại Ðức Mahākassapa mà thôi.
4- Pañhābyākaraṇūpasampadā như thế nào?
Tại chùa Pubbārāma, Ðức Phật đang ngự đi kinh hành, khi ấy Sa di tên là “Sopāka” đến hầu Ðức Phật. Ðức Phật bèn hỏi Sa di Sopāka câu hỏi liên quan đến đề mục asubha: bất tịnh rằng:
– Uddhamātakasaññā’ti vā Sopāka, rūpasaññā’ti vā ime dhammā nānatthā nānā byañjanā, udahu ekatthā byañjanameva nānā…
“Này Sa di Sopāka, niệm tưởng tử thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc pháp, hai pháp này nghĩa khác nhau, danh từ gọi khác nhau? Hay nghĩa giống nhau, danh từ gọi khác nhau?”
Sa di Sopāka mới lên 7 tuổi bạch với Ðức Phật rằng:
– “Uddhamātakasaññā’ti vā Bhagavā rūpasaññā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānā…”
“Kính bạch Ðức Thế Tôn, niệm tưởng tử thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc pháp, nghĩa giống nhau, chỉ có danh từ gọi khác nhau. Bạch Ngài”.
Ðức Phật hài lòng câu trả lời của Sa di Sopāka, nên Ngài cho phép Sa di Sopāka trở thành Tỳ khưu. Ðó gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Ðức Phật. Ðây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho vị Sa di Sopāka mà thôi.
5- Ñatticatuṭṭhakammūpasampadā như thế nào?
Giáo pháp của Ðức Phật ngày càng phát triển, Tỳ khưu càng ngày càng đông. Cho nên Ðức Phật bỏ cách thọ Tỳ khưu bằng cách thọ Tam quy rằng:
“Yā sā bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi upasampadā anuññatā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi.
Anujānāmi bhikkhave, ñatticatutthena kammena upasampādetuṃ”.
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai đã cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách thọ Tam quy; kể từ nay về sau, Như Lai bỏ cách thọ Tỳ khưu ấy.
Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép thọ Tỳ Khưu bằng cách tụng một lần ñatti (tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā”.
Cách thọ Tỳ khưu này bắt đầu từ Ðại Ðức Rādha và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Hiện nay, trong các nước Phật giáo theo truyền thống hệ phái Theravāda (Nam Tông), từ phía nam Ấn Ðộ, truyền qua các nước Tích Lan (Srilankā), Miến Ðiện (Myanmar), Thái Lan, Cam-puchia, Lào cho đến nước Việt Nam; mặc dầu mỗi nước có ngôn ngữ tiếng nói khác nhau, song tất cả đều căn cứ theo Luật tạng Pāḷi làm căn bản, cho nên vẫn cố gắng giữ gìn, duy trì y nguyên theo truyền thống thọ Sa di theo cách thọ Tam quy bằng ngôn ngữ Pāḷi, vị Thầy Tế Ðộ truyền Tam quy, giới tử thọ Tam quy, cả hai bên đều phải phát âm từng chữ, từng câu, đúng theo văn phạm Pāḷi gọi là “Ubhato suddhi”.
Và nghi thức thọ Tỳ khưu, chư Tỳ khưu Tăng từ 5 vị trở lên hội họp tại nơi sīmā. Có 2 hoặc 3 vị Tỳ khưu luật sư hành Tăng sự tụng ñatticatutthakammavācā: tụng một lần ñatti (tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), phải phát âm từng chữ, từng câu đúng theo văn phạm Pāḷi.
Ðó gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách tụng ñatticatutthakammavācā.
Ngoài cách thọ Tỳ khưu này ra, còn lại tất cả mọi cách hành Tăng sự (Saṃghakamma) khác, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā cũng tụng ñattikammavācā bằng ngôn ngữ Pāḷi, hầu như giống hệt nhau, kể cả tụng những bài kinh Parittapāḷi nữa.
Ðây là tính đặc thù của các nước Phật giáo theo truyền thống Hệ Phái THERAVĀDA, bởi vì các nước này đều căn cứ y theo Tam tạng Pāḷi làm nền tảng căn bản chính.
* Thọ Tỳ khưu ni (Bhikkhunī upasampadā)
Ðức Phật chế định ban hành phép thọ Tỳ khưu ni bằng 3 cách.
1- Garudhammapaṭiggahanūpasampadā như thế nào?
Thời kỳ Ðức Phật ngự tại tịnh xá trong khu rừng lớn thuộc xứ Vesalī, bà Mahāpajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya đứng trước cổng tịnh xá buồn tủi khóc than, vì Ðức Phật không cho phép phái nữ thọ Tỳ khưu ni.
Ðại Ðức Ānanda nhìn thấy tình cảnh thật đáng thương như vậy, nên vào xin với Ðức Phật cho phép phái nữ được thọ Tỳ khưu ni. Ðức Phật truyền dạy: Nếu dì mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp (garudhamma), thì đó là sự thọ Tỳ khưu ni của dì mẫu (Xem phần “8 trọng pháp trang 98).
Bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận, thọ nhận 8 trọng pháp mà Ðức Phật đã chế định ban hành.
Ðó gọi là thọ Tỳ khưu ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp.
Ðây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho bà Mahāpajāpatigotamī mà thôi. Ðại Ðức Tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī là vị Tỳ khưu ni đầu tiên trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama.
2- Dūtenūpasampadā như thế nào?
Trường hợp cô Aṇḍhakāsī, trước khi thọ Tỳ khưu ni, cô là một kỹ nữ nổi tiếng. Nay cô Aṇḍhakāsī đã thọ Tỳ khưu ni giữa Tỳ khưu ni Tăng rồi, cô Aṇḍhakāsī chuẩn bị lên đường đi đến kinh thành Sāvatthi để hầu Ðức Phật và xin phép thọ Tỳ khưu ni giữa Tỳ khưu Tăng. Cô hay tin có một nhóm trai trẻ ăn chơi sẽ đón đường bắt cô, do đó cô không dám đi đến hầu Ðức Phật, cô nhờ một người đại diện đến bạch với Ðức Phật về sự khó khăn cản trở của cô trong việc đến xin phép thọ Tỳ khưu ni giữa Tỳ khưu Tăng. Ðức Phật biết như vậy, nên đặc biệt cho phép cô rằng:
“Anujānāmi bhikkhave, dūtena pi upasampadetuṃ”.
“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép cô Aṇḍhakāsī thọ Tỳ khưu ni bằng cách nhờ người đại diện”.
Ðó gọi là thọ Tỳ khưu ni bằng cách nhờ người đại diện.
Ðây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho cô Aṇḍhakāsī mà thôi.
3- Aṭṭhavācīkūpasampadā như thế nào?
Trước khi thọ Tỳ khưu ni, giới tử là Sikkhāmānā được tu tập giữ gìn 6 giới hoàn toàn trong sạch và đầy đủ suốt 2 năm (nếu phạm giới nào, phải bắt đầu trở lại). Khi giới tử Sikkhāmānā đủ 2 năm rồi, được phép thọ giới Tỳ khưu ni, gồm 2 giai đoạn:
– Giai đoạn thứ nhất: chư Tỳ khưu ni Tăng hội họp tại nơi sīmā (ranh giới sīmā), vị Tỳ khưu ni luật sư hành Tăng sự tụng một lần ñatti (tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā.
– Giai đoạn thứ hai: Giới tử Tỳ khưu ni ấy đến trình chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại nơi sīmā, vị Tỳ khưu luật sư hành Tăng sự tụng 1 lần ñatti và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā, gọi là ñatticatutthakammavācā.
Như vậy, sự thọ Tỳ khưu ni phải hành Tăng sự giữa chư Tăng 2 phái, mỗi phái đều hành Tăng sự tụng ñatticatuṭṭhakammavācā, gồm đủ 8 lần, gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā.
Cách thọ Tỳ khưu ni này áp dụng chung cho tất cả Tỳ khưu ni.
Trong thời kỳ Ðức Phật còn tại thế, bà Mahāpajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya đến xin Ðức Phật thọ Tỳ khưu ni. Ðặc biệt bà Mahā-pajāpatigotamī cung kính chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp của Ðức Phật đã ban hành, đó là sự thọ Tỳ khưu ni của bà Mahāpajāpatigotamī. Còn nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya Ðức Phật cho phép thọ Tỳ khưu ni chỉ có Tỳ khưu Tăng hành Tăng sự tụng 1 lần ñatti và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā, gọi là ñatticatutthakammavācā, vì khi ấy chưa có Tỳ khưu ni Tăng. Tất cả nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya trở thành Tỳ khưu ni.
Kể từ đó về sau, nghi thức thọ Tỳ khưu ni giữa chư Tăng 2 phái: Tỳ khưu ni Tăng và Tỳ khưu Tăng, mỗi phái hành Tăng sự tụng ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần. Do đó, gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā.