Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN IV: NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP
(KAMMA- KAMMAPHALA)
Soạn giả: Tỳ-Khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
Lời Nói Đầu
Bộ Nền Tảng Phật-giáo là một bộ sách có 7 quyển gồm có 9 chương. Mỗi chương được khái quát như sau:
1- Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)
– Đức-Phật (Buddha)
– Đức-Pháp (Dhamma)
– Đức-Tăng (Saṃgha)
2- Chương thứ nhì: Tam-Bảo (Ratanattaya)
– Đức-Phật-bảo (Buddharatana)
– Đức-Pháp-bảo (Dhammaratana)
– Đức-Tăng-bảo (Saṃgharatana)
3- Chương thứ ba: Ân-Đức Tam-Bảo (Ratanattayaguṇa)
– Ân-Đức Phật-bảo (Buddhaguṇa)
– Ân-Đức Pháp-bảo (Dhammaguṇa)
– Ân-Đức Tăng-bảo (Saṃghaguṇa)
4- Chương thứ tư: Quy-Y Tam-Bảo (Tisaraṇa)
– Quy-y Phật-bảo (Buddhasaraṇa)
– Quy-y Pháp-bảo (Dhammasaraṇa)
– Quy-y Tăng-bảo (Saṃghasaraṇa)
5- Chương thứ năm: Pháp–Hành-Giới (Sīlācāra)
– Giới của người tại gia cư sĩ (Gahaṭṭhasīla)
– Giới của bậc xuất gia tu sĩ (Pabbajitasīla)
6- Chương thứ sáu: Nghiệp Và Quả Của Nghiệp (Kamma-kammaphala)
– Bốn loại nghiệp (Kammacatuka)
– Bất-thiện-nghiệp (Akusalakamma)
– Quả của bất-thiện-nghiệp (Akusalavipāka)
– Thiện-nghiệp (Kusalakamma)
– Quả của thiện-nghiệp (Kusalavipāka)
7- Chương thứ bảy: Phước-Thiện (Puñña-kusala)
– 10 nhân phát sinh phước-thiện Puññakriyāvatthu)
8- Chương thứ tám: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī)
– 30 pháp-hạnh ba-la-mật (Tiṃsapāramī)
9- Chương thứ chín: Pháp-Hành-Thiền (Bhāvanā)
– Pháp-hành thiền-định (Samathabhāvanā)
– Pháp-hành thiền-tuệ (Vipassanābhāvanā)
9 chương chia ra làm 7 quyển như sau:
1- Quyển I là Tam-Bảo (Ratana) gồm có 2 chương là chương thứ 1 và chương thứ 2.
2- Quyển II là Quy-Y Tam-Bảo (Tiaraṇa) gồm có 2 chương là chương thứ 3 và chương thứ 4.
3- Quyển III là Pháp–Hành-Giới (Sīlācāra) gồm có 1 chương là chương thứ 5.
4- Quyển IV là Nghiệp Và Quả Của Nghiệp (Kamma- kammaphala) gồm có 1 chương là chương thứ 6.
5- Quyển V là Phước-Thiện (Puññakriyāvatthu) gồm có 1 chương là chương thứ 7.
6- Quyển VI là Pháp-Hạnh Ba-La-Mật (Pāramī) gồm có 1 chương là chương thứ 8, có 3 tập: tập 1, tập 2 tập 3 ( 3 cuốn).
7- Quyển VII là Pháp-Hành Thiền (Bhāvanā) gồm có 1 chương là chương thứ 9, có 2 tập: tập 1, tập 2 (2 cuốn)
Như vậy, bộ Nền-Tảng Phật-Giáo gồm có 7 quyển chia làm 10 cuốn sách.
Quyển IV: Nghiệp và Quả Của Nghiệp (Kamma – Kammaphala)
Nghiệp và quả của nghiệp là 2 pháp có liên quan với nhau theo nhân và quả. Đức-Phật thuyết dạy nghiệp và quả của nghiệp rằng:
“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi”(1).
“Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta; ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng ‘quả của thiện-nghiệp hoặc quả của ác-nghiệp ấy.”
* Nghiệp của mỗi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng đã tạo, đã tích-luỹ được lưu trữ ở trong tâm từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp-hiện-tại này.
* Và quả của nghiệp được hiện hữu trong mỗi kiếp khác nhau do năng lực của nghiệp cho quả.
* Nghiệp và quả của nghiệp này là một điều mà chỉ có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của Đức-Phật và của tất cả mọi chúng-sinh khác, từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp cho đến kiếp-hiện-tại và vô số kiếp vị-lai mà thôi.
Ngoài Đức-Phật ra, không có một ai trong toàn cõi-giới chúng sinh thấy rõ biết rõ được nghiệp và quả của nghiệp của mình và của chúng sinh khác được.
Thật vậy, nghiệp và quả của nghiệp là 1 trong 4 điều bất khả tư nghì mà Đức-Phật đã dạy trong bài kinh Acinteyyasutta([1]) có nghĩa như sau:
- “Này chư tỳ-khưu! Có 4 điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.
4 điều bất khả tư nghì là:
1- Những Ân-đức của Chư Phật như trí-tuệ toàn-giác của Chư Phật, v.v… đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.
2- Thiền-định, phép thần-thông, đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.
3- Nghiệp và quả của nghiệp, đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.
4- Tạo ra các cõi-giới, đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.
“Này chư tỳ-khưu! Đó là 4 điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.”
Nghiệp và quả của nghiệp
Nghiệp là gì?
Đức-Phật dạy: “Cetanā’haṃ, bhikkhave, kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.(1)” Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý, rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Do đó Như-Lai dạy “tác-ý gọi là nghiệp.”
Tác-ý đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) là 1 trong 52 tâm-sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
“Tác-ý gọi là nghiệp” nếu khi tác-ý tâm-sở nào đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, và đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy gọi là nghiệp.
* Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) tạo 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
* Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm tạo 8 dục-giới đại-thiện–nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.
* Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm tạo 5 sắc-giới thiện-nghiệp bằng ý.
* Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm tạo 4 vô-sắc-giới thiện–nghiệp bằng ý.
* Tác-ý tâm-sở khi đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-Đạo-tâm tạo 4 hoặc 20 siêu-tam-giới thiện-nghiệp bằng ý.
Ngoài ra, nếu tác-ý tâm-sở nào đồng sinh với 36 hoặc 52 quả-tâm và 20 duy-tác-tâm thì tác-ý tâm-sở ấy không gọi là nghiệp.
Nghiệp liên quan với quả của nghiệp như thế nào?
Đức-Phật dạy: “Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi”(1). Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta; ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng ‘quả của thiện-nghiệp hoặc quả của ác-nghiệp ấy’.
Kammassako’mhi: Ta có nghiệp là của riêng ta, nghĩa là nếu ta đã tạo thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào rồi thì thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy là của riêng ta, không phải là của chung với một ai, không liên quan đến người nào, chúng sinh nào cả.
Tất cả nghiệp dù nhẹ dù nặng mà ta đã tạo từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho kiếp-hiện-tại đều được lưu trữ đầy đủ nguyên vẹn ở trong tâm, không hề bị hao hụt chút nào cả. Dù cho thân bị thay đổi theo mỗi kiếp do năng lực của nghiệp, nhưng tâm vẫn sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp khác, nghiệp vẫn ở trong tâm.
Cho nên, chỉ có nghiệp là của riêng ta mà thôi, nghiệp ở trong tâm thuộc về danh-pháp (nāmadhamma).
Ta có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn nên tạo đại-thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào rồi. Nếu đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả thì ta hoàn toàn bị động chấp nhận quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy, một cách trực-tiếp, như người thừa hưởng quả của nghiệp của ta, mà ta không có quyền khước từ được.
Đặc biệt, quả của nghiệp ví như quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp không chỉ trực-tiếp với riêng ta, mà còn gián-tiếp ảnh hưởng đến người thân gần gũi với ta nữa.
Ngoài thiện-nghiệp, ác-nghiệp là của riêng ta ra, còn lại tất cả những gì khác đều là của chung giữa ta với người khác có quan hệ với ta trong kiếp-hiện-tại. Đó là quan niệm theo sự-thật chế-định-pháp (sammuti-sacca).
Thật ra, theo sự-thật chân-nghĩa-pháp (paramattha-sacca), ngũ-uẩn này là pháp-vô-ngã (anattā), không phải là ta, không phải của ta. Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā).
Nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) và 21 hoặc 37 thiện-tâm đều là pháp-vô-ngã (anattā).
Thật vậy, chính tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm tạo nên ác-nghiệp hoặc tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tạo nên đại-thiện-nghiệp rồi lưu trữ ở trong tâm. Ta hoàn toàn không có quyền điều khiển hoặc cầu xin đại-thiện-nghiệp này cho quả an-lạc đối với ta, và cũng không có quyền ngăn cấm ác-nghiệp kia đừng cho quả khổ đối với ta.
Sự thật, *nếu khi ác-nghiệp nào gặp điều nghịch-duyên (vipatti) thì ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả, nếu khi ác-nghiệp nào gặp điều thuận-duyên (sampatti) thì ác-nghiệp ấy không có cơ-hội cho quả.
* Nếu khi đại-thiện-nghiệp nào gặp điều thuận-duyên (sampatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả, nếu khi đại-thiện-nghiệp nào gặp điều nghịch-duyên (vipatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy không có cơ-hội cho quả.
* Vipatti: Nghịch-duyên có 4 pháp:([2])
1- Gativipatti: Cõi-giới nghịch-duyên là cõi ác-giới.
2- Upadhivipatti: Thân-thể nghịch-duyên là thân thể bị tật nguyền.
3- Kālavipatti: Thời-gian nghịch-duyên là thời gian gặp nạn đói, v.v…
4- Payogavipatti: Tinh-tấn nghịch-duyên là tinh-tấn tạo ác-pháp.
Ác-nghiệp gặp 4 vipatti: nghịch-duyên có cơ-hội cho quả của ác-nghiệp, nếu gặp 4 sampatti: thuận-duyên thì không có cơ-hội cho quả của ác-nghiệp.
* Sampatti: Thuận-duyên có 4 pháp:
1- Gatisampatti: Cõi-giới thuận-duyên là cõi thiện-giới.
2- Upadhisampatti: Thân-thể thuận-duyên là thân-thể không tật nguyền.
3- Kālasampatti: Thời-gian thuận-duyên là thời gian có đầy đủ sung túc.
4- Payogasampatti: Tinh-tấn thuận-duyên là sự tinh-tấn tạo mọi thiện-pháp.
Dục-giới đại-thiện-nghiệp nương nhờ 4 sampatti:thuận duyên có cơ-hội cho quả của đại-thiện-nghiệp, nếu gặp 4 vipatti: nghịch-duyên thì không có cơ-hội cho quả của đại-thiện-nghiệp.
Như vậy, nghiệp cho quả hoàn toàn không phụ thuộc vào ai cả, nên nghiệp và quả của nghiệp đều là pháp-vô-ngã (anattā).
* Quả của nghiệp có thể gây ảnh hưởng đến người thân cận gần gũi như thế nào?
Tassa dāyādo bhavissāmi: Ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy. Tuy nhiên, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy không chỉ có ta là người trực-tiếp thừa hưởng quả của nghiệp ấy, mà quả của nghiệp ấy còn có thể gián-tiếp ảnh hưởng đến người thân cận, gần gũi với ta nữa.
Cũng như vậy, mỗi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng, người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào, dĩ nhiên đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy chỉ là của riêng họ mà thôi, không phải là của chung với ai cả, không liên quan với người nào, chúng sinh nào cả.
Nếu khi đại-thiện-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả an-lạc hoặc ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả khổ thì không chỉ người chủ-nhân của nghiệp ấy trực-tiếp thừa hưởng quả của nghiệp ấy, mà quả của nghiệp ấy còn có thể gián-tiếp ảnh hưởng đến người thân cận, gần gũi với chủ-nhân của nghiệp nữa.
Ví dụ 1: Ảnh hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp
* Tích Ngài Trưởng-lão Sīvali(1) được tóm lược như sau:
Trong thời kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, tiền kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali là một người cận-sự-nam có ý nguyện muốn trở thành vi Thánh A-ra-hán Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật trong thời vị lai, được Đức-Phật Padumuttara thọ ký rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Trong thời vị lai, kể từ kiếp trái đất này, rồi sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa.
Đến kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa, sẽ có Đức-Phật Gotama(1) xuất hiện trên thế gian. Khi ấy người cận-sự-nam này sinh ra trong gia đình hoàng tộc, từ bỏ nhà đi xuất gia sẽ trở thành vị Thánh-A-ra-hán Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, như vị Sudassana vị Thánh-A-ra-hán Đại thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.
Lắng nghe lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara, người cận-sự-nam vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước-thiện bố-thí 4 thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng cho đến trọn đời.
Trên vòng tử sinh luân hồi, mỗi tiền kiếp của Ngài Trưởng-lão cố gắng tinh tấn tạo bồi bổ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nhất là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, mà người khác khó làm được. Tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão đã bồi bổ 10 pháp-hạnh ba-la-mật cho đầy đủ, suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
Hậu Kiếp Của Người Cận-Sự-Nam
Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người cận-sự-nam trong thời kỳ Đức-Phật Padumuttara do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng Hoàng-hậu Suppavāsā nước Koliya.
Từ khi tái-sinh đầu thai (thai-nhi Sīvali) nằm trong bụng, mỗi ngày mẫu-hậu thường nhận được những món quà quý giá, đặc biệt trong các kho của cải dù xuất nhiều bao nhiêu cũng không thấy vơi bớt chút nào, của cải lúc nào cũng đầy kho. Những người trong hoàng-tộc đều được đầy đủ sung túc, hạnh phúc an lạc.
Đó là quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp (thai-nhi Sīvali) đang nằm trong bụng mẫu-hậu có ảnh hưởng tốt đến những người thân trong hoàng-tộc của hoàng tử.
Hoàng-tử Sīvali nằm trong lòng bà hoàng-hậu Suppavāsā dòng Koliya suốt thời gian 7 năm, và 7 ngày.([3]) Trong 7 ngày cuối, Hoàng-hậu Suppavāsā chịu bao nỗi đau đớn đến cùng cực, vì thai-nhi không sinh ra được, tưởng chừng không sống nổi, nên bà tâu với Đức-vua phu quân rằng:
– Tâu Hoàng-thượng, trước khi chết thần thiếp muốn làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu Đức-Thế-Tôn mà bạch rằng: “Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Suppavāsā công chúa dòng Koliya kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để làm phước-thiện bố-thí cúng-dường. ”Đức-Thế-Tôn truyền dạy như thế nào, xin Hoàng thượng ghi nhớ, rồi truyền lại cho thần thiếp rõ.”
Theo lời tâu của hoàng hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu Đức-Thế-Tôn, bạch theo lời của bà.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng: “Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā, arogaṃ puttaṃ vijāyatu.” Công chúa Suppavāsā dòng Koliya được an-lạc, không có bệnh sinh hoàng tử an toàn, không bệnh.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy. Tại cung điện Hoàng hậu Suppavāsā sinh hoàng tử một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình, giữa số đông người trong hoàng-tộc hân hoan vui mừng.
Đức-vua ngự trở về vô cùng vui mừng nghĩ rằng: “Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn đúng như thật.”
Đức-vua ngự đến thăm hoàng-hậu Suppavāsā, truyền lại lời dạy của Đức-Thế-Tôn cho hoàng-hậu nghe.
Hoàng-hậu tâu rằng:
– Tâu Hoàng-thượng, kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để thần thiếp làm phước-thiện bố-thí cúng dường suốt 7 ngày.
* Hoàng-tử sinh ra đời dập tắt sự nóng lòng của hoàng-tộc, nên đặt tên là Sīvali, gọi là hoàng-tử Sīvali.
Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, Hoàng-hậu Suppavāsā làm phước-thiện bố-thí cúng-dường lên Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi hoàng tử Sīvali rằng:
– Này hoàng tử Sīvali,! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng mẫu hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?
Hoàng-tử Sīvali bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.
Thấy hoàng-tử bạch chuyện gì với Ngài Đại-Trưởng-lão, hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết bạch chuyện gì, nên Bà đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, hoàng-tử của con bạch điều gì với Ngài Đại-Trưởng-lão vậy?
– Này hoàng-hậu! Hoàng tử của Bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.”
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói như vậy, Hoàng-hậu Suppavāsā vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hoàng-tử đi xuất gia, nên Bà bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài từ bi tế độ hoàng-tử của con được phép xuất gia.
Hoàng Tử Sīvali Xuất Gia Trở Thành Sa-Di
Hoàng tử Sīvali khi đang làm lễ cạo tóc như sau:
* Khi cạo những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu,
* Tiếp theo những sợi tóc thứ hai rơi xuống, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-Bất-lai.
* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, cùng một lúc với lễ cạo tóc không sau không trước.
Khi ấy, hoàng tử Sīvali kể từ khi tái-sinh đầu thai vào lòng Hoàng-hậu Suppavāsā suốt 7 năm 7 ngày cộng với 7 ngày sinh ra đời. Hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh-A-ra-hán lúc 7 năm 14 ngày.
Sau đó, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là thầy tế độ làm lễ xuất gia Sadi cho giới tử Sīvali. Sau khi trở thành Sadi, những thứ vật dụng phát sinh không chỉ đến Ngài Đại-đức Sīvali, mà còn phát sinh đến chư sa-di, chư tỳ-khưu một cách đầy đủ sung túc chưa từng có.
Hằng ngày, không chỉ có loài người, mà còn có chư thiên cũng đem những thứ vật dụng đến dâng lễ cúng dường đến Ngài Đại-đức Sīvali cùng chư sa-di, chư tỳ-khưu một cách đầy đủ sung túc chưa từng có.
Khi Ngài Đại-đức Sīvali tròn 20 tuổi, chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ nâng lên trở thành tỳ-khưu. Những thứ vật dụng được phát sinh càng dồi dào sung túc hơn.
Mỗi khi một đoàn chư tỳ-khưu-Tăng rất đông du hành đến một nơi khác, phải đi qua những vùng hẻo lánh, không có người sinh sống. Trong đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu rất đông ấy, nếu có Ngài Đại-đức Sīvali cùng đi, thì Đức-Phật cho phép đi, bởi vì đến vùng hẻo lánh nào đúng giờ chư Đại-đức tỳ-khưu đi khất thực, thì chư thiên liền biến hóa ra xóm làng, thành thị có dân chúng đông đúc trù phú để bát dâng lễ cúng dường đến Ngài Đại- đức Sīvali cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Khi chư Đại-đức tỳ-khưu du hành đến nơi khác thì xóm làng, thành thị ấy biến mất. v.v…
Đó là quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp của Ngài Đại-đức Sīvali có ảnh hưởng đến chư sa-di, tỳ-khưu-Tăng.
Một hôm, chư tỳ-khưu đang bàn luận về tài lộc đặc biệt của Ngài Đại-đức Sīvali, thì Đức-Phật ngự đến, nhân dịp ấy Đức-Phật tuyên dương Ngài Đại-đức Sīvali rằng: “Etadaggaṃ, bhikkhave mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali.” Này chư tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn của Như-Lai.
Ngài Đại-đức Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Đó là quả của đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật mà vô số tiền-kiếp của Ngài Đại-đức Sīvali đã tạo và lời phát nguyện được Đức-Phật Đức-Phật Padumuttara thọ ký.
Ví dụ 2: Ảnh hưởng quả xấu của ác-nghiệp
* Tích Ngài Trưởng-lão Losakatissa(1) được tóm lược như sau:
Trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa là vị tỳ-khưu trụ trì chùa. Một hôm, một Ngài khách Tăng là bậc Thánh-A-ra-hán đến vùng ấy đi khất thực trước ngôi nhà người thí chủ xây dựng ngôi chùa và hộ độ chư tỳ-khưu-Tăng. Nhìn thấy Ngài khách Tăng ?liền phát sinh đức tin trong sạch, cung kính thỉnh Ngài khách Tăng ấy vào nhà ngồi nơi cao quý, rồi để bát cúng dường vật thực. Người thí-chủ kính thỉnh Ngài khách Tăng đến nghỉ tại ngôi chùa ấy.
Chiều hôm ấy, người thí chủ đến chùa, đem những phẩm vật cúng-dường đền Ngài khách Tăng một cách cung-kính. Nhìn thấy người thí chủ đối xử cung kính đặc biệt với Ngài khách Tăng, nên vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ, không hài lòng với Ngài khách Tăng. Trước khi trở về, người thí-chủ đến đảnh lễ vị trụ-trì, rồi bạch rằng:
– Kính bạch Đại-đức trụ-trì, ngày mai, con kính thỉnh Đại-đức cùng với Ngài khách Tăng đến tư gia để con cúng dường vật thực.
Vị tỳ-khưu trụ trì đã phát sinh tâm ganh tỵ với Ngài khách Tăng, nên sáng hôm sau, vị tỳ-khưu trụ trì làm bộ dùng ngón tay đánh chuông, gõ cửa, rồi một mình đi đến nhà người thí chủ. Người thí chủ bạch hỏi vị Đại-đức trụ trì về Ngài khách Tăng. Vị tỳ-khưu trụ trì nói xấu Ngài khách Tăng đủ điều, nhưng người thí chủ vốn có đức tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng.
Người thí-chủ kính dâng cúng-dường món ăn đặc biệt gọi là pāyāsa đến Đại-đức trụ-trì độ vật thực xong.
Người thí chủ xin cái bát rửa sạch, rồi để vật thực món ăn đặc biệt gọi là pāyāsa trong bát, rồi dâng đến vị Đại-đức trụ trì, nhờ vị Đại-đức trụ trì đem về kính dâng cúng dường đến Ngài khách Tăng. Trên đường đi về chùa, vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng:
“Nếu ta đem vật thực ngon lành này về cho vị khách Tăng ấy thì dù ta lôi ra khỏi chùa, ông cũng không dễ gì chịu đi, tốt hơn ta nên đổ bỏ phần vật thực này.”
Vị tỳ-khưu trụ trì đã thực hiện ý định ấy, nên đem phần vật thực ấy đào đất chôn, lấy lửa thang hồng phủ lên trên, chất củi đốt, rồi trở về chùa.
Khi về đến chùa, không nhìn thấy Ngài khách Tăng ấy nữa. Vị tỳ-khưu trụ trì ăn năn hối hận việc làm tội lỗi của mình, nên phát sinh bệnh trầm trọng, rồi chết.
Sau khi vị tỳ-khưu trụ trì chết, ác-nghiệp ấy liền cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa ngục này, cũng do ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong các cõi ác-giới khác như ngạ quỷ, súc sinh, v.v…..
Khi mãn quả của ác-nghiệp mới được thoát ra khỏi cõi ác-giới. Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, nhưng do quả của ác-nghiệp đổ bỏ vật thực của bậc Thánh-A-ra-hán, ấy, nên mỗi khi sinh làm kiếp người đều phải chịu quả ác đói khổ.
Hậu-kiếp của vị trụ-trì thời-kỳ Đức-Phật Kassapa
Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa, do đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh đầu thai kiếp chót vào xóm dân chài gồm có 1.000 gia đình.
Từ khi tái-sinh nằm trong lòng mẹ trong xóm 1.000 gia đình dân chài ấy, do quả của ác-nghiệp cũ của thai nhi (hậu kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì) khiến cho xóm dân chài 1.000 gia đình lâm vào cảnh đói khổ.
Ông trưởng xóm dân chài đoán biết có người kālakaṇṇī: người xúi quẩy sinh trong xóm dân chài này, cho nên, ông chia xóm dân chài ra thành 2 nhóm. Mỗi nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai-nhi Ngài Trưởng-lão đều phải chịu cảnh đói khổ. Còn nhóm 500 gia đình kia vẫn làm ăn sinh sống như bình thường.
Từ đó, nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai-nhi Ngài Trưởng-lão lại chia ra làm 2, mỗi nhóm 250 gia đình; và cứ thế lại chia làm 2, làm 2… Cuối cùng còn 2 gia đình lại chia làm 2.
Như vậy, chỉ có gia đình người mẹ mang thai-nhi Ngài Trưởng-lão chịu cảnh đói khổ. Đến khi đủ tháng ngày, người mẹ sinh ra, đặt tên là cậu Losakatissa. Mẹ cha của cậu Losakatissa phải chịu vất vả khổ cực lắm mới nuôi dưỡng cậu Losakatissa lên 7 tuổi.
Một hôm, người mẹ dẫn cậu Losakatissa đi xin ăn, người mẹ trao cho cậu một cái bát đi xin, rồi bà trốn đi, bỏ cậu một mình bơ vơ đói khổ.
Hôm ấy, nhìn thấy cậu Losakatissa, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta phát sinh tâm bi cứu giúp cậu Losakatissa, dẫn cậu về làm lễ xuất gia trở thành vị sa-di.
Hằng ngày, vị sa-di Losakatissa đi khất thực không đủ ăn, thường chịu sự đói khổ. Đến khi vị sa-di Losakatissa tròn 20 tuổi, chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ nâng lên trở thành tỳ-khưu.
Hằng ngày, vị tỳ-khưu Losakatissa tuy chịu cảnh đói khổ, nhưng vị tỳ-khưu Losakatissa cố gắng tinh tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng, do nhờ 10 pháp-hạnh ba-la-mật mà Ngài Trưởng-lão đã tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ.
Đến ngày cuối cùng, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực đem về cho Ngài Trưởng-lão Losakatissa độ một bữa no đủ, rồi Ngài Trưởng-lão Losakatissa tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, đồng thời mọi ác-nghiệp cũng như mọi thiện-nghiệp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosi-kamma), không còn có cơ-hội cho quả được nữa.
Như vậy, trong thời quá-khứ, vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã từng tích-luỹ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên kiếp chót, dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh đầu thai kiếp chót (paṭisandhikāla) đầu thai làm người là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai.
Và trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã tạo ác-nghiệp đổ bỏ vật thực, không dâng đến bậc Thánh-A-ra-hán, có cơ-hội cho quả trong thời-kỳ sau khi tái-sinh (pavattikāla), nên khi còn thai-nhi nằm trong bụng mẹ, quả của ác-nghiệp ấy đã làm ảnh hưởng xấu đến 1.000 gia đình dân chài ấy phải chịu quả đói khổ, do thai nhi nằm trong bụng mẹ.
Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa thật là công bằng như sau:
* Đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ dẫn đến cho quả tốt trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.
* Ác-nghiệp đổ bỏ vật thực dành cho bậc Thánh-A-ra-hán, có cơ-hội cho quả xấu chịu cảnh đói khổ không chỉ riêng cho Ngài Trưởng-lão, mà còn làm khổ ảnh hưởng đến người thân cận gần gũi khác nữa.
Cho nên, nghiệp là của riêng mỗi người, còn quả của nghiệp không chỉ trực-tiếp riêng cho người ấy, mà còn gián-tiếp ảnh hưởng đến người thân cận gần gũi khác.
Mỗi chúng-sinh có nghiệp là của riêng mình, trong cuộc sống thường bị chi phối hoặc tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh ấy.
Do ác-nghiệp nào mà làm nhiều người chết cùng một lúc, hoặc tai nạn xảy ra làm nhiều người chết, bị thương cùng một lúc, hoặc nhiều người cùng khổ trong hoàn cảnh giống nhau.
Vậy, có phải họ cùng tạo ác-nghiệp giống nhau hay không?
Nếu người nào tạo ác-nghiệp phạm luật pháp hiện hành, trong kiếp-hiện-tại thì người ấy bị bắt xét xử theo pháp luật, đó là điều ấy dễ biết.
Còn tiền-kiếp của người nào đã từng tạo ác-nghiệp nào trong kiếp-quá-khứ, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả xấu, quả khổ đối với người ấy trong kiếp-hiện-tại, thì chỉ có duy nhất Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới thấy rõ biết rõ ác-nghiệp ấy mà thôi.
Ngoài Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ra, các chúng sinh khác không có một ai thấy rõ biết rõ ác-nghiệp ấy được.
Ví dụ 3: Ảnh hưởng quả của ác-nghiệp giống nhau
* Trường hợp dòng họ Sakya đều bị tàn sát do Đức-vua Viṭaṭūbha ngự tại kinh-thành Sāvatthī, đất nước Kosala, bởi vì tiền-kiếp của dòng họ Sakya đồng tâm cùng nhau tạo ác-nghiệp bỏ thuốc độc xuống dòng sông sát hại chúng-sinh lớn nhỏ trong quá khứ, nay kiếp-hiện-tại dòng họ Sakya, ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả, dù Đức-Phật muốn cứu cũng không thể cứu được.
Nguyên-nhân xảy ra trong kiếp-hiện-tại của dòng họ Sakya trong tích Viṭaṭūbhavatthu([4]) trích tóm lược đoạn liên quan nghiệp và quả của nghiệp của dòng họ Sakya như sau:
Đức-vua Pasenadi ngự tại kinh-thành Sāvatthī, trị vì đất nước Kosala rộng lớn, muốn làm thân với dòng họ Sakya là thân quyến của Đức-Phật Gotama, nên gửi đoàn sứ giả đến yết kiến Đức-vua Mahānāma, xin cầu hôn với công chúa dòng Sakya.
Dòng Sakya họp bàn với nhau không muốn chấp thuận ban công chúa dòng Sakya kết hôn với người khác dòng, nhưng lại sợ uy thế của Đức-vua Pasenadi, chưa tìm ra phương cách đối xử với Đức-vua Pasenadi thế nào.
Đức-vua Mahānāma truyền bảo rằng: Trẫm có người con gái tên Vāsabhakhattiyā rất xinh đẹp sinh ra từ thị nữ của Trẫm. Chúng ta nên ban người con gái tên Vāsabhakhattiyā rất xinh đẹp ấy cho Đức-vua Pasenadi. Mọi người trong dòng họ Sakya đều chấp thuận. Đoàn sứ giả rước cô Vāsabhakhattiyā đem về dâng lên Đức-vua Pasenadi. Nhìn thấy Cô Vāsabhakhattiyā rất xinh đẹp, Đức-vua Pasenadi đem lòng yêu quý, nên tấn phong lên ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu. Về sau, Chánh-cung Hoàng-hậu Vāsabhakhattiyā sinh hạ Thái-tử Viṭaṭūbha. Khi Thái-tử Viṭaṭūbha còn thơ ấu, Đức-vua Pasenadi phong chức tể tướng.
Năm 16 tuổi, Thái-tử Viṭaṭūbha xin mẫu hậu cho phép đi thăm viếng hoàng tộc bên ngoại, mẫu hậu khuyên can không được, đành phải chấp thuận. Thái-tử Viṭaṭūbha vào chầu Đức Phụ-vương tâu xin phép đi thăm viếng hoàng tộc bên ngoại, Đức-vua Pasenadi cũng chấp thuận.
Thái-tử Viṭaṭūbha đi đến kinh thành Kapilavatthu cùng với đoàn lính theo hầu nhiều người, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vāsabhakhattiyā đã gửi thư báo trước cho biết Thái-tử Viṭaṭūbha đến thăm. Thái-tử Viṭaṭūbha được đón tiếp rất trọng thể tại cung điện của Đức-vua Mahānāma. Đức-vua Mahānāma dòng họ Sakya là Đức-vua ngoại của Thái-tử Viṭaṭūbha.
Trong khoảng thời gian ở tại cung điện, Thái-tử Viṭaṭūbha được tiếp đãi ân cần, trải qua 2, 3 ngày, Thái-tử Viṭaṭūbha cùng với đoàn lính thuộc hạ mới trở về kinh-thành Sāvatthī.
Sau khi Thái-tử Viṭaṭūbha rời khỏi cung điện, nữ tỳ vào trong phòng khách trong cung điện, cằn nhằn nói xấu rằng: “ đây là chỗ mà đứa con trai của thị nữ Vāsabha-khattiyā ngồi.” vừa nói lẩm bẩm vừa lấy nước trộn với sữa lau chùi chỗ ngồi ấy. Khi ấy, vị quan cận vệ để quên thanh gươm, nên trở lại phòng khách lấy thanh gươm, đứng nghe rõ lời lẩm bẩm, nên hỏi nữ tỳ để biết rõ sự-thật bà Vāsabhakhattiyā là con gái của thị nữ với Đức-vua Mahānāma dòng họ Sakya.
Nghe vị quan cận vệ thưa lại sự việc xảy ra như vậy, Thái-tử Viṭaṭūbha kết oan trái rằng: “ Dòng họ Sakya rửa chỗ ngồi của ta bằng nước trộn với sữa, sau này ta lên ngôi vua, ta sẽ cắt cổ dòng Sakya lấy máu rửa chỗ ngồi của ta.” Khi Thái-tử Viṭaṭūbha trở lại kinh-thành Sāvatthī, các quan tâu sự việc này lên Đức-vua Pasenadi.
Đức-vua Pasenadi nổi giận dòng họ Sakya rằng: “Dòng họ Sakya ban cho ta người con gái của thị nữ với Đức-vua Mahānāma.”
Đức-vua thu lại những đồ trang sức đã ban cho bà Vāsabhakhattiyā với ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu và Thái-tử Viṭaṭūbha, rồi chỉ ban lại những đồ trang sức đối với địa vị thị nữ và con trai của thị nữ mà thôi. Sau đó, thời gian trải qua 2, 3 ngày sau, Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện của Đức-vua Pasenadi.
Đức-vua Pasenadi đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dòng họ Sakya của Đức-Thế-Tôn, ban cho con người con gái của thị nữ với Đức-vua Mahānāma, nên con đã thu lại những đồ trang sức đã ban cho bà Vāsabhakhattiyā với ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu và Thái-tử Viṭaṭūbha, rồi chỉ ban lại những đồ trang sức đối với địa vị thị nữ và con trai của thị nữ mà thôi.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này Đại-vương, dòng họ Sakya đã đối xử với Đại-vương không hợp lý. Theo lệ thường, nên ban công chúa dòng Sakya tương xứng với Đại-vương.
– Này Đại-vương! Thật ra Vāsabhakhattiyā là con của Đức-vua Mahānāma dòng họ Sakya, và Thái-tử Viṭaṭūbha là con của Đại-vương.
Đúng theo sự-thật, bên mẹ không phải là quan trọng, chỉ có bên cha mới thật là quan trọng mà thôi.
Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua Pasenadi vô cùng hoan hỷ biết được rằng: “ Chỉ có bên cha mới thật là quan trọng mà thôi.” nên Đức-vua truyền phong lại ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu cho bà Vāsabhakhattiyā cùng những đồ trang sức Chánh-cung Hoàng-hậu, và phong lại ngôi vị Thái-tử cho Viṭaṭūbha cùng với những đồ trang sức Thái-tử. Về sau, Thái-tử Viṭaṭūbha được lên ngôi làm vua, Đức-vua Viṭaṭūbha nhớ lại sự oan trái với dòng họ Sakya, nên nghĩ rằng: “Ta sẽ tàn sát tất cả dòng họ Sakya.”
Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đoàn binh lính đông đảo trên đường đến kinh thành Kapilavatthu. Canh chót đêm ấy, Đức-Phật xem xét chúng-sinh nên tế độ, thấy dòng họ Sakya sẽ bị tàn sát, nên Đức-Phật nghĩ rằng: “Như-lai nên tế độ thân quyến dòng họ Sakya.” Đức-Phật từ ngôi chùa Jetavana bay đến ngồi dưới cội cây có bóng mát trống trải gần kinh-thành Kapilavatthu.
Nhìn thấy Đức-Phật ngồi tại dưới cội cây, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tại sao Đức-Thế-Tôn ngồi dưới cội cây có bóng mát trống trải này, lúc trời nắng như vậy, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cội cây da có bóng mát rậm rạp kia.
Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:
– Này Đại-vương! Chẳng có sao! Bóng mát của thân quyến dòng họ mới là mát thật sự.
Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua nghĩ rằng: “ Đức-Thế-Tôn ngự đến ngồi tại đây để tế độ thân quyến dòng họ Sakya,” nên Đức-vua đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi lui quân trở về kinh-thành Sāvatthī. Đức-Thế-Tôn bay trở về ngôi chùa Jetavana.
Một thời gian sau, nhớ lại hận thù của dòng họ Sakya, lần thứ nhì Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đem quân đến kinh-thành Kapilavatthu. Nhìn thấy Đức-Phật ngồi tại dưới cội cây, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi lui quân trở về kinh-thành Sāvatthī, như lần trước.
Lần thứ ba, Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đem quân đến kinh-thành Kapilavatthu. Nhìn thấy Đức-Phật ngồi tại dưới cội cây, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi cũng lui quân trở về kinh-thành Sāvatthī, như hai lần trước.
Đến lần thứ tư, Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đem quân đến kinh-thành Kapilavatthu để tàn sát dòng họ Sakya. Lần này, Đức-Phật thấy rõ biết rõ tiền-kiếp của dòng họ Sakya đồng tâm cùng nhau tạo ác-nghiệp bỏ thuốc độc xuống dòng sông sát hại chúng-sinh lớn nhỏ trong quá khứ, nay kiếp-hiện-tại, ác-nghiệp ấy có cơ-hội cho quả, nên không thể ngăn được. Đức-Phật không ngự đến ngồi như 3 lần trước.
Đức-vua Viṭaṭūbha tàn sát dòng họ Sakya đều là những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, phần đông là bậc Thánh-nhân, dù là đứa trẻ còn bú sữa cũng không còn sót lại.
Sau khi tàn sát dòng họ Sakya xong, Đức-vua Viṭaṭūbha kéo đoàn quân trở về đến con sông Aciravatī vào lúc ban đêm, Đức-vua Viṭaṭūbha truyền lệnh dựng trại bên bờ sông nghỉ đêm tại đó.
Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân quá sức mệt lử nằm xuống ngủ say. Đêm hôm ấy, một trận mưa lớn như đổ nước, nước chảy mạnh tràn bờ cuốn trôi Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân ra biển cả làm mồi cho cá.
Như vậy, Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân đã tạo ác-nghiệp tàn sát toàn thể dòng họ Sakya cả già lẫn trẻ, rồi Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân bị nước lũ cuốn trôi ra biển cả làm mồi cho cá.
* Trường hợp bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī của Đức-vua Udena cùng với nhóm 500 nữ tỳ, trong số người ấy có số là bậc Thánh-Nhập-lưu, có số là bậc Thánh-Nhất-lai, có số là bậc Thánh-Bất-lai, đều bị chết thiêu do âm mưu thâm độc của bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgandhiyā của Đức-vua Udena, trong tích Sāmāvatīvatthu([5]) trích tóm lược đoạn liên quan đến nghiệp và quả của nghiệp của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà như sau:
Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgandhiyā của Đức-vua Udena đã sai khiến những người bà con thân quyến đến đốt cháy ngôi cung thất của bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà, rồi chặn các cửa ra vào và các cửa sổ không để cho một ai thoát ra khỏi. Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgandhiyā thù ghét bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà, bởi vì họ là những thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Đức-Phật Gotama.
Sở dĩ, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī và nhóm 500 nữ tỳ đều bị chết thiêu là vì tiền-kiếp của những người ấy đã từng cùng nhau tạo ác-nghiệp trong thời quá-khứ như sau:
“Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta trị vì kinh thành Bārāṇasī. Hằng ngày Đức-vua hộ độ cúng dường đến 8 Đức-Phật Độc-Giác.
Đức-vua truyền lệnh cho nhóm cung nữ gồm có một người nữ trưởng nhóm cùng với 500 cung nữ thuộc hạ thân tín lo hộ độ cúng dường đến 8 Đức-Phật Độc-Giác.
Khi ấy, 7 Đức-Phật Độc-Giác cùng ngự trở về núi Himavanta, còn một Đức-Phật Độc-Giác nhập diệt thọ tưởng suốt 7 ngày đêm trong đống cỏ gần bên bờ sông. Cho nên, nhóm cung nữ được rảnh rỗi.
Một hôm, Đức-vua cho phép nhóm cung nữ đi tắm sông, mải ham chơi dưới nước, khi lên bờ cảm thấy lạnh, nhóm cung nữ liền đến đống cỏ đốt lửa sưởi ấm, đến lúc đống cỏ cháy tàn rụi, họ mới nhìn thấy Đức-Phật Độc- Giác đang ngồi nhập diệt-thọ-tưởng tại nơi ấy.
Vì sợ bị Đức-vua trị tội, nên nhóm cung nữ bàn tính cùng nhau đi tìm củi đem đến chất thành đống thiêu rụi Đức-Phật Độc-Giác, để không còn tang chứng, nhưng do năng-lực nhập diệt-thọ-tưởng của Đức-Phật Độc- Giác, nên lửa không thể thiêu rụi Đức-Phật Độc-Giác được, đến ngày thứ 7, Đức-Phật Độc-Giác xả diệt-thọ- tưởng trở lại cuộc sống bình thường.
Như vậy, ban đầu nhóm cung nữ đốt cỏ để sưởi ấm không có tác-ý sát-sinh, nhưng sau đó, có tác-ý thiêu rụi Đức-Phật Độc-Giác, họ có tác-ý sát-sinh, cùng nhau tạo ác-nghiệp sát-sinh không đủ chi-pháp. (bởi vì Đức-Phật Độc-Giác không chết).
Nhóm cung nữ sau khi chết, ác-nghiệp thiêu đốt Đức-Phật Độc-Giác ấy không chết, đã tạo ác-nghiệp không đủ chi-pháp cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, bị thiêu đốt suốt nhiều ngàn năm.
Sau khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm người, thường bị chết thiêu hằng trăm kiếp như vậy.
Nay kiếp-hiện-tại này, bà chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà là hậu kiếp của nhóm cung nữ trong thời quá khứ ấy, tất cả đều bị chết thiêu, đó là quả xấu của ác-nghiệp thiêu đốt Đức-Phật Độc-Giác không chết trong thời quá khứ ấy.
* Trường hợp những người nào chết cùng một lúc do bởi thiên tai hoặc tai nạn xảy ra, những người ấy đã từng tạo ác-nghiệp giống nhau hay không, điều ấy không thể biết được, nhưng sự sịnh, sự tử đều do quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh.
* Một số người có quan niệm rằng:“tạo thiện-nghiệp để xóa bỏ ác-nghiệp.” Quan niệm như vậy có đúng hay không?
Ác-nghiệp nào mà người nào đã tạo trong kiếp-hiện-tại, hoặc trong những kiếp trong quá khứ, ác-nghiệp ấy đã được lưu-trữ ở trong tâm rồi.
Về sau, người ấy dù có tạo đại-thiện-nghiệp có năng-lực mạnh như thế nào cũng không thể trở ngược lại thời gian trong quá khứ để xóa bỏ ác-nghiệp quá khứ ấy được, còn thiện-nghiệp ấy cũng đã được lưu-trữ ở trong tâm của người ấy.
Tuy nhiên, dù đại-thiện-nghiệp không thể xóa bỏ được ác-nghiệp trong quá khứ, nhưng nếu người ấy cố gắng tinh-tấn tạo nhiều đại-thiện-nghiệp thì cũng có khả năng làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp quá-khứ ấy được.
Thật ra, ác-nghiệp nào nếu khi gặp nghịch-duyên (vipatti) thì ác-nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy; nếu khi găp thuận-duyên (sampatti) thì ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Nghịch-duyên của ác-nghiệp có 4 điều là gativipatti, kālavipatti, payogavipatti, updhivipatti.
Cũng như vây, đại-thiện-nghiệp nào nếu khi gặp thuận-duyên (sampatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy; nếu khi găp nghịch-duyên (vipatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.
Thuận-duyên của đại-thiện-nghiệp có 4 điều là gati-sampatti, kālasampatti, payogasampatti, updhisampatti. Bởi vậy cho nên, không phải tất cả mọi ác-nghiệp, tất cả mọi thiện-nghiệp đều cho quả của chúng.
Nền-Tảng Phật-Giáo quyển IV, chương VI này trình bày: “Nghiệp và quả của nghiệp”. Nghiệp phân loại có 4 phần chính:
1- Kiccacatukka: Phần nghiệp được phân loại theo phận-sự có 4 loại nghiệp.
2- Pākadānapariyāyacatukka: Phần nghiệp được phân loại theo tuần tự cho quả của nghiệp có 4 loại nghiệp.
3- Pākakālacatukka: Phần nghiệp được phân loại theo thời gian cho quả của nghiệp có 4 loại nghiệp.
4- Pākaṭṭhānacatukka: Phần nghiệp được phân loại theo cõi-giới cho quả của nghiệp có 4 loại nghiệp.
Như vậy, 4 phần nghiệp gồm có 16 loại nghiệp, mỗi loại nghiệp có tên gọi như sau:
1- Phần nghiệp phân loại theo phận-sự (Kiccacatukka) có 4 loại nghiệp:
1.1- Janakakamma: Sinh-quả-nghiệp là nghiệp có phận-sự cho quả trong thời kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp-hiện-hữu.
1.2- Upathambhakakamma: Hỗ-trợ-nghiệp là nghiệp có phận-sự hỗ-trợ nghiệp khác cho quả.
1.3- Upapīḷakakamma: Hãm-hại-nghiệp là nghiệp có phận-sự hãm hại nghiệp đối nghịch.
1.4- Upaghātakakamma: Sát-hại-nghiệp là nghiệp có phận-sự sát hại nghiệp khác.
2- Phần nghiệp phân loại theo tuần tự cho quả của nghiệp (Pākadānapariyāyacatukka) có 4 loại nghiệp:
2.1- Garukakamma: Trọng-yếu-nghiệp là nghiệp trọng-yếu có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trước.
2.2- Āsannakamma: Cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung.
Nếu không có trọng-yếu-nghiệp thì cận-tử nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.
2.3- Āciṇṇakamma: Thường-hành-nghiệp là nghiệp thường hành hằng ngày đêm.
Nếu không có trọng-yếu-nghiệp và cận-tử-nghiệp thì thường-hành-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.
2.4- Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp là nghiệp bình thường kém 3 loại nghiệp trên, hoặc nghiệp trong kiếp quá-khứ. Nếu không có 3 loại nghiệp trên thì bình-thường-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.
3- Phần nghiệp phân loại theo thời gian cho quả của nghiệp (Pākakālacatukka) có 4 loại nghiệp.
3.1- Diṭṭhadhammavedanīyakamma:Hiện-quả-nghiệp là nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại. (kiếp thứ nhất).
3.2- Upapajjavedanīyakamma: Kế-quả-nghiệp là nghiệp cho quả kiếp kế tiếp. (kiếp thứ nhì).
3.3- Aparāpariyavedanīyakamma: Tiếp-tục-nghiệp là nghiệp cho quả những kiếp tiếp theo (kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn).
3.4-Ahosikamma: Vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.
4- Phần nghiệp phân loại theo cõi- giới cho quả của nghiệp (pākaṭṭhānacatukka) có 4 loại nghiệp:
4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có 12 loại nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.
4.2- Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới đại-thiện-nghiệp có 8 loại nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.
4.3- Rūpāvacarakusalakamma: Sắc-giới thiện-nghiệp có 5 loại nghiệp cho quả tái-sinh trong 16 cõi trời sắc- giới phạm-thiên.
4.4- Arūpavacarakusalakamma: Vô-sắc-giới thiện-nghiệp có 4 loại nghiệp cho quả tái-sinh trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên.
Đó là 4 phần nghiệp mà mỗi phần có 4 loại thành 16 loại nghiệp.
Nghiệp và quả của nghiệp là một đề tài vô cùng rộng lớn, sâu sắc, vi tế chỉ có duy nhất Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của mình và của tất cả chúng-sinh trong ba giới bốn loài mà thôi.
Ngoài Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ra, không một vị nào khác có khả năng thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của mình và của tất cả mọi chúng-sinh khác.
Tuy nhiên chư bậc Thánh-A-ra-hán chứng đắc lục-thông cũng có khả năng biết nghiệp và quả của nghiệp của mình trong tiền-kiếp quá-khứ có giới hạn. Chư bậc Thánh-A-ra-hán đã thuật lại tiền-kiếp của Ngài được ghi trong bộ Apadāna và bộ Theragāthā …..
*Quyển IV- “Nghiệp Và Quả Của Nghiệp” này, bần sư đã cố gắng hết sức mình sưu tầm các bài kinh pāḷi từ trong Tam-tạng pāḷi và phần Chú-giải pāḷi, đặc biệt từ toàn bộ sách giáo khoa “Paramatthajotika” của Ngài Trưởng-lão Saddhammajotika, giảng giải về bộ môn Abhidhamma, hiện đang sử dụng giảng dạy trong phân khoa Abhidhammajotikavidayālaya của trường đại-học “Mahācuḷālongkornrājavidayālaya” tại thủ đô Bangkok, Thái-Lan, v.v….
Bần sư đã cố gắng sưu tầm gom nhặt từ nhiều nguồn tài liệu giảng giải về nghiệp và quả của nghiệp đem làm thí dụ dẫn chứng để giúp cho độc giả có thêm đức-tin về nghiệp và quả của nghiệp của mình và của người khác, chúng-sinh khác.
Bần sư chỉ có khả năng bấy nhiêu thôi, ngõ hầu hỗ-trợ độc giả thuận lợi tìm hiểu về nghiệp và quả của nghiệp. Song vì khả năng có hạn, nên chắc chắn không tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.
Kính mong chư bậc thiện-trí từ, bi chỉ giáo, góp ý chân tình, để lần sau có dịp tái bản được hoàn thiện hơn. .
Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung, mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng, để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta.
Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng chân tình ấy của chư bậc thiện trí, và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.
Quyển IV “ Nghiệp Và Quả Của Nghiệp” tái bản lần thứ nhì có bổ sung và sửa chữa được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp đỡ nhất là Dhammanandā upāsikā đã tận tâm xem kỷ lại bản thảo, dàn trang, làm thành quyển sách; các thí-chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành và đã được nhà xuất bản tôn-giáo cho phép ấn hành.
Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả quý vị.
Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (tỳ-khưu Hộ-Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Hộ-Tông, Vaṃsa-rakkhitamahāthera là sư phụ của con, đồng thời đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Thiện-Luật, Ngài Đại- Trưởng-Lão Bửu-Chơn, Ngài Đại-Trưởng-Lão Giới-Nghiêm, Ngài Trưởng-lão Hộ-Giác (chùa Từ-Quang) Ngài Trưởng-lão Hộ-Nhẫn (chùa Thiền-Lâm, Huế) cùng chư Đại-Trưởng-Lão, chư Đại-đức khác đã dày công đem Phật-giáo Nguyên thủy (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt-Nam thân yêu, và xin kính dâng phần phước-thiện thanh cao này đến chư Đại-Trưởng-Lão ở nước Thái-Lan, nước Myanmar (Miến-Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp học và pháp-hành.
Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.
Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả bà con thân quyến của chúng con, từ kiếp-hiện-tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện thanh cao này để thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.
Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñātimittānañ ceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu, dukkhā muccantu sabbattha.
Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phần phước-thiện pháp-thí thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng-sinh từ cõi địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, nhân-loại, chư-thiên trong các cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong các cõi trời sắc-giới,… Xin tất cả quý vị hoan hỷ nhận phần phước-thiện pháp-thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi cảnh khổ, hưởng được mọi sự an-lạc lâu dài trong khắp mọi nơi.
Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.
Phước-thiện pháp-thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não trầm-luân, mọi tham-ái, giải thoát khổ tử sinh luân hoài trong ba giới bốn loài.
Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não trầm-luân, mọi tham-ái, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tử sinh luân hồi, thì do năng-lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này ngăn cản mọi ác-nghiệp không có cơ hội cho quả tái-sinh trong 4 cõi ác-giới và cũng do năng-lực phước-thiện thanh cao này chỉ hỗ-trợ thiện-nghiệp cho quả tái-sinh trong cõi thiện-giới: cõi người, các cõi trời dục-giới… mà thôi.
Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con đều là người có chánh-kiến, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, có đức-tin trong sạch nơi bậc thiện-trí, cố gắng tinh tấn thực-hành theo lời giáo-huấn của bậc thiện-trí, không ngừng tạo mọi pháp-hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ, để mong sớm chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, mong chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, mong diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Trong kiếp tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc, có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, hoặc chư Thánh-thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, cố gắng tinh tấn thực-hành theo chánh-pháp của Đức-Phật, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Nay, chúng con hết lòng thành kính thọ phép quy-y Tam-bảo: quy-y nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nơi Đức-Pháp- bảo, quy-y nơi Đức-Tăng-bảo, và thành tâm hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời, trọn kiếp.
Do nhờ năng-lực phước-thiện thanh cao này, cầu mong cho mỗi người chúng con luôn luôn có duyên lành, tạo được nhân tốt sâu sắc trong Phật-giáo.
Do nhờ năng-lực phước-thiện pháp-thí thanh cao này theo hỗ-trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con trong mỗi kiếp, dù khi được thành tựu quả-báu ở cõi người (manussasampatti) hưởng được mọi sự an-lạc đầy đủ trong cõi người như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc dù khi được thành tựu quả-báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được mọi an-lạc đầy đủ trong cõi trời như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời, bởi vì, mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con chỉ có cầu mong sớm thành tựu quả-báu chứng ngộ Niết-bàn (Nibbānasampatti) mà thôi, để mong giải thoát khổ, tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ, khippameva samijjhatu.
Điều mong ước, ý nguyện của chúng con, Cầu mong sớm được thành tựu như ý.
P.L. 2.558/ D.L. 2014
Rừng Núi Viên Không
Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita)
(bổ sung vào quyển quy-y Tam-bảo)
* Kinh Tevijjasutta([6])
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự đến vùng Kosala cùng với 500 chư tỳ-khưu-Tăng trú tại vườn xoài, gần bờ sông Aciravatī phía Bắc làng Manasākaṭa.
Thời ấy, nhóm bà-la-môn phú giả trí-thức nổi tiếng như Bà-la-môn Vaṅkī, Bà-la-môn Tārkkha, Bà-la-môn Pokkharasātī, Bà-la-môn Jāṇusoṇī, Bà-la-môn Todeyya và các Bà-la-môn trí-thức khác.
1Aṅg. Pañcakanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭṭhānasutta.
[1] Aṅguttaranikāya, Catukkanipāta, Acinteyyasutta
1 Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta.
1Aṅg. Pañcakanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭṭhānasutta.
[2] Aṅg.Tikanipāta, Aṭṭhakathā, Nidānasuttavaṇṇanā, 4 sampatti, 4 vipatti giảng giải phần “Cơ hội đại-thiện-nghiệp,ác-nghiệp cho quả, trang 447.
1 Bộ Aṅguttaranikāya aṭṭhakathā, tích Sīvalittheravatthu…
1 Từ Đức-Phật Padumuttara đã xuất hiện trên thế gian cho đến thời kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian có khoảng cách thời gian trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất và trải qua 15 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.
[3] Dha. Aṭṭhakathā, tich Khadiravaniyarevatattheravatthu, Hoàng tử Sīvali ở trong lòng mẫu- hậu Supavāsā suốt thời gian 7 năm 7 tháng 7 ngày.
1 Bộ Jātakaaṭṭhakathā, Tích Losakatissajātaka.
[4] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Pupphavagga, Tích Viṭaṭūbhavatthu
[5] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Appamādavagga, Tích Sāmāvatīvatthu
[6] Dīghanikāya, Sīlakkhandhavagga, Kinh Tevijjasutta